Tạ Duy Anh
Nhớ
lại trước tết Kỷ Sửu, tức là cách nay chừng ba năm, có một nhà báo do
thấy tôi hay sáng tác về nông thôn, bèn phỏng vấn tôi về con trâu và
cuộc sống của người nông dân ngày nay. Trong bài phỏng vấn đó có một
đoạn hỏi và đáp như sau:
Hỏi: Việc “công
nghiệp hóa nông thôn” theo ông hiện nay đúng hay sai? Một số người cho
rằng, không phải cứ đưa nhà máy, xí nghiệp về xây dựng ở đồng ruộng là
công nghiệp hóa, mà phải xây dựng một nền nông nghiệp vững mạnh bằng sự
sáng tạo, đầu tư có chiều sâu, khoa học cho nông thôn.
Trả
lời: Theo tôi chúng ta đang tự làm khó mình bằng những khái niệm mơ hồ,
đầy tính chủ quan về quyền sở hữu, bóc lột, làm thuê... Luật đất đai
hiện nay sẽ hạn chế mọi nỗ lực cải tạo nông thôn. Nói thẳng ra chúng ta
chỉ cố khẳng định thành tựu của mấy chục năm đã qua bằng cách giữ nguyên
những khái niệm đã trở nên rất buồn cười. Đó là thứ sĩ diện chính trị
hão, không cần thiết. Bởi vì muốn công nghiệp hoá nông thôn thì trước
hết phải chấp nhận có những chủ đất lớn. Không ai có thể hình dung nổi
với cái quyền sử đất như hiện nay mà lại có thể công nghiệp hoá nông
thôn. Nói cho vui thì cứ nói.
Hỏi: Nhà văn nghĩ sao về đời sống người nông dân hiện nay?
Trả
lời: Phần lớn người nông dân hiện thời đang đứng trước một tương lai u
ám. Chúng ta sẽ phải chứng kiến một nghịch cảnh là đất đai ngày càng
hiếm nhưng sẽ ngày càng nhiều đất đai bị bỏ hoang hoặc khai thác không
hiệu quả. Và hiện tượng đất đai bạc mầu, bị làm cho mất khả năng canh
tác sẽ còn kinh khủng hơn. Chung quy cũng vì Luật đất đai quá lạc hậu.
Sau
khi gửi lại bài cho anh phóng viên nọ, tôi cũng quên luôn, quên cả hỏi
xem anh ta định đăng ở báo nào. Vừa ra Tết thì tôi được mấy anh bạn là
tổng biên tập báo gọi đến, bảo rằng trong cuộc giao ban đầu xuân Kỷ Sửu
của Ban Tư tưởng văn hoá, tôi bị phê phán đích danh bởi những quan điểm
ngược chiều với định hướng tuyên truyền của Đảng, thể hiện trong bài
phỏng vấn ngắn vừa nêu. Lúc đó tôi chẳng nghĩ gì cả, mà chỉ thấy buồn
cười. Tôi đã thẳng thắn nói giúp các nhà lãnh đạo đất nước một sự thật
đang rất phổ biến ở nông thôn, cảnh báo về nhiều bất cập trong cách thức
quản lý và sử dụng đất đai, dẫn đến nhiều nghịch cảnh đau lòng và âm ỉ
khối bức xúc ngày một lớn. Nếu không có cách giải toả sẽ đến ngày nó nổ
tung và khi đó thì tất cả – tôi nhắc lại là tất cả – những
gì thành tựu một cách vô cùng vất vả mấy chục năm đổi mới sẽ bị cuốn
phăng, sẽ đổ vỡ tan tành. Nhiều nhà tham mưu biết thực trạng này nhưng
họ khôn ngoan không nói vì sợ bị quy chụp.
Phải
nói rõ một sự thật, nông thôn giờ đây không còn cảnh đói ăn rét mặc như
thời mấy chục năm trước (nếu có thì cũng không nhiều). Đó là nhờ quá
trình giải thể triệt để mô hình sản xuất ngự trị thời bao cấp. Khi đất
đai về với người nông dân, mặc dù mới chỉ là hạn mức 20 năm, khi họ được
tự do mưu sinh trên thửa ruộng, khi những năng lực được giải phóng khỏi
sự kìm hãm, dù mới ở mức còn hạn chế, cũng đã khiến họ tạo ra sự kỳ
diệu như những gì chúng ta chứng kiến. Nếu cứ khăng khăng nói rằng, mấy
chục năm đổi mới mà đa số nông dân vẫn đói ăn, thiếu mặc là nói lấy được
và thiếu sự công tâm.
Nhưng còn một sự thật
khác, cái sự thật mà các nhà lãnh đạo thường không thích nếu có ai đó
nói thẳng ra, đó là sự khổ cực thì vẫn bao trùm lên đời sống người nông
dân, bao trùm lên hầu khắp các làng xã. Thậm chí cảm giác về nỗi cơ cực
có nơi còn lớn hơn cả cái thời nghèo đói do môi trường bẩn thỉu, làng
xóm bị xé nát, tệ nạn cờ bạc, nghiện hút… tràn lan cùng vô vàn thói xấu
thành thị du nhập về theo những người dân ra phố kiếm việc. Có nhiều
nguyên nhân nhưng có thể thấy rõ hai nguyên nhân chính, đó là nạn hà chính
của cán bộ cơ sở các cấp và những rắc rối, quanh co, khó hiểu của Luật
đất đai khiến người nông dân ồ ạt bỏ ra thành thị thay vì kiếm ăn trên
đồng ruộng của mình. Cứ tưởng khi những trói buộc người nông dân được
cởi bỏ thì họ có rất nhiều quyền. Nhưng trên thực tế họ chỉ có quyền rõ
ràng nhất là quyền dùng sức lao động của mình. Còn lại những quyền khác
đều mơ hồ, hoặc chỉ có trên giấy, hoặc bị đám quan lại mới tước mất bằng
trăm ngàn hình thức vô cùng tinh vi. Trong khi đó, những né tránh vòng
vo của Luật đất đai chỉ vì không muốn dùng tới cặp từ tư hữu (chẳng hạn
người sử dụng đất không phải là chủ sở hữu nhưng có 5 quyền vv…) đã vô
tình gây khốn khó cho người nông dân, đặc biệt khi mà đất đai trở thành
tài sản có giá trị lớn về tiền bạc, dễ bị những người có quyền chức lợi
dụng khái niệm sở hữu toàn dân để tham nhũng. Chúng ta chưa vội
bàn tới chuyện tích trữ ruộng đất, như một quá trình không thể đảo ngược
ở nông thôn nếu muốn nó có một bộ mặt khác, sáng sủa hơn-đã bị ngăn cản
bởi Luật đất đai, bởi quy định về hạn điền; chúng ta cũng còn thời gian
để bàn về khả năng sử dụng đất như một hàng hoá trong quá trình sản
xuất, tạo nguồn lực… Cũng hãy tạm gác lại chuyện đất đai bị tận dụng
khai thác, đưa tới thực trạng bạc mầu hoá đang diễn ra ở khắp nơi. Ở
đây, vì tính chất nóng bỏng của vấn đề, chúng ta chỉ gói gọn trong hai
việc, là hậu quả của những quy định mập mờ, đầy cảm tính chính trị được
ghi trong Luật đất đai. Vấn đề thứ nhất là mục tiêu khích lệ sản xuất,
tiêu chí hàng đầu mà bất cứ bộ luật nào về ruộng đất phải tập trung
hướng tới; và vấn đề thứ hai là quyền thực sự của người nông dân trên
thửa đất của mình. Với việc tạm giao đất (dù là 20 năm thì cũng vẫn là
tạm giao), người nông dân sẽ ứng xử với mảnh ruộng mình đang canh tác
như là thứ đi mượn. Trước sau thì nó cũng tuột khỏi tay mình. Vì thế họ
chỉ khai thác những gì dễ sinh lợi nhất, sinh lợi tức khắc mà không nhằm
tới những kế hoạch dài hạn, có khả năng cho thu hoạch lớn hơn, giá trị
lao động cao hơn. (Ví dụ như việc làm giàu đất, đầu tư thuỷ lợi, đầu tư
giống cây năng suất cao, chuyển đổi phương thức canh tác, chọn cây có
tiềm năng lâu dài…Những việc này có thể mất nhiều thời gian, khi cho
thành quả thì đất lại thuộc về người khác. Người nông dân nào thì cũng
dễ dàng suy diễn như vậy!). Nói khác đi, thay vì canh tác đúng nghĩa, họ
bòn vét tối đa mảnh đất được tạm giao, thậm chí huỷ hoại nó nếu cần
thiết. Hiện tượng người nông dân thi nhau đào đất bề mặt ruộng đem bán
là một ví dụ đau lòng. Hiện tượng nhiều mảnh ruộng – vốn là bờ xôi ruộng mật – bị
hút cạn màu và bị bỏ hoang là những ví dụ còn đau lòng hơn. Thế là còn
ruộng đấy mà giá trị canh tác thì bị mất. Trong khi đó, vì chỉ là đất
mượn của nhà nước, nên họ không thể cho người khác có khả năng tốt hơn
mượn lại. Hoặc nếu có thì quá trình này vô tình vi phạm luật pháp nếu
không diễn ra bí mật với nhiều hệ luỵ.
Bây giờ
đến vấn đề quyền thực sự của người nông dân trên thửa đất cho họ nguồn
sống chính. Theo quy định thì họ có tới 5-6 quyền. Nhưng cái quyền quan
trọng nhất là được gắn bó máu thịt với mảnh đất ấy thì lại không có. Chỉ
riêng thực tế này thôi đã thấy Luật đất đai cần phải làm lại. Phải trả
cho người nông dân cái quyền yêu quý, gắn bó lâu dài chừng nào họ còn
muốn với mảnh đất của họ. Cái quyền đó đồng thời xác quyết quyền bất khả
xâm phạm những gì mà họ tạo ra trên mảnh đất ấy mà không thông qua thoả
thuận mang tính pháp lý. Đến đây chúng ta hoàn toàn có thể dùng ngay
dẫn chứng từ vụ việc xảy ra ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng thành phố
Hải Phòng. Mọi thứ thoả thuận giữa người nông dân và chính quyền có vẻ
đều đúng với các quy định hiện hành của Luật pháp và Luật đất đai ngoại
trừ việc có sự khác nhau trong cách tính thời gian. Nhưng mấu chốt vấn
đề không phải ở chỗ ông Vươn có quyền thuê đến bao giờ? Nếu không phải
là năm 2012 thì sẽ là 2015, 2017… ông sẽ phải trả lại khu đầm do chính
ông khai hoang cho xã, huyện. Đã là quy định thì phải chấp hành! Vấn đề ở
đây là sau khi xã, huyện lấy lại khu đầm đó thì nó được dùng vào việc
gì? Trong vòng vài chục năm tới chắc chắn vẫn chỉ có việc cho nuôi thả
thuỷ sản. Chúng ta chưa bàn tới đạo lý, sự công bằng là người nào đổ
công sức, mồ hôi và cả máu để có được khu đầm ấy, thì quyền canh tác
trước tiên phải thuộc về họ. Ngay cả quyền tài phán cũng phải chia cho
họ. Chúng ta chỉ phân tích ở khía cạnh thuần tuý kinh nghiệm thực tế
cũng thấy, không ai có thể làm mọi thứ tốt hơn anh em ông Đoàn Văn Vươn
trên khu đầm ấy. Của đau, con xót. Chúng ta không nên quên điều đơn giản
ấy. Vì phải rất vất vả mới có khu đầm, anh em ông Đoàn Văn Vươn không
chỉ khai thác khu đầm một cách tốt nhất, mà họ còn biết khiến cho nó bền
vững, xinh đẹp, sạch sẽ nhất. Hơn thế, họ sẽ đầy cảm hứng lao động và
kích thích tình yêu lao động cho hàng ngàn người khác, khích lệ người
nông dân ở lại quê nhà, kiếm ăn, làm giầu thay vì bỏ đi lang thang. Đây
không thể là những giá trị vô hình, trừu tượng. Nó là tài sản to lớn mà
Nhà nước phải trân trọng và phải định giá cho nó mặc dù nó vô giá. Nếu
ai cũng hiểu thấu điều mang tính đạo lý, văn hoá này thì sẽ thấy việc
thu hồi khu đầm tôm của ông Vươn – kể cả khi hết thời hạn mà không vì mục đích khác ngoài nuôi thả thuỷ sản –
là hành động làm tổn hại rất lớn đến xã hội xét về mọi phương diện. Nếu
do chấp hành máy móc những quy định thì lãnh đạo địa phương là những
người dốt. Còn nếu vì động cơ trục lợi, thì những kẻ đầu têu ra việc thu
hồi kể trên thực sự là độc ác, bất nhân, tối mắt vì cái lợi nhỏ mà huỷ
hoại số tài sản lớn gấp hàng ngàn lần, có loại tính được, có loại không
thể tính được như tình nghĩa đồng bào, niềm tin, tình yêu lao động… Dốt
thì nên từ quan mà về. Còn bất nhân thì phải bị trừng phạt thích đáng.
Nhưng
cái điều mà chúng ta quan tâm nhất chính là, sau sự cố trên, sau muôn
vàn giả thiết đầy nuối tiếc, thứ cần phải được chỉ đích danh là nguyên
nhân của sự việc không gì khác ngoài bất cập của Luật đất đai. Chỉ ra sự
bất cập không phải để quy kết. Bộ luật nào thì cũng có giá trị thời
gian của nó. Luật đất đai với riêng người nông dân đã bị thời cuộc, nói
đúng hơn, những đòi hỏi của thời cuộc vượt qua. Nó cần một sự thay đổi
từ quan niệm pháp lý trong vấn đề sở hữu ruộng đất. Nó cần tạo cơ sở
chắc chắn cho niềm tin của người nông dân, khơi dậy ở họ tình yêu đất
đai, làng mạc, không ngừng làm gia tăng những giá trị liên quan đến văn
hoá, đạo đức như là sản phẩm tinh hoa của tình yêu ấy. Họ không chỉ là
nông dân mà là những người đại diện cho 70 phần trăm dân số, những người
đã chịu mọi cực khổ để cho đất nước này niềm tự hào là cường quốc lúa
gạo và đang tham gia kiến tạo an ninh lương thực toàn cầu. Vấn đề lớn
đến nhường ấy đâu có thể chỉ nói cho đẹp lòng nhau trong hội nghị. Theo
tôi, trong khi can đảm sửa Luật đất đai, cần lập tức gia hạn thêm thời
gian cho loại đất 20 năm để không xảy ra tình trạng quan lại cường hào
chầu chực cướp đất của dân lành, còn người nông dân thì đầu tư cầm
chừng, hoặc tệ hơn sẽ tàn phá hoa màu, tàn phá đất đai, tàn phá sinh
thái trước khi hết hạn vào năm 2013.
Vụ
việc xảy ra ở Tiên Lãng là một đáng tiếc lớn khi có tới 6 người thừa
hành nhiệm vụ bị thương không phải do kẻ địch! (Vì chẳng có kẻ địch nào
cả). Ông Đoàn Văn Vươn nên phải chịu một hình thức trừng phạt nào đó,
giả dụ bồi thường xứng đáng cho những người mà ông gây thương tích, cho
dù gốc của sai trái không thuộc về ông. Là người chủ trương nhường nhịn,
kiên nhẫn thượng tôn luật pháp, tôi không thể chia sẻ với hành động nổ
mìn của anh em ông Đoàn Văn Vươn. Nhưng một xã hội công bằng, bao dung,
biết suy xét phải trái thì không nên chỉ quy kết một chiều. Giả sử không
có những tiếng nổ ấy liệu xã hội và Nhà nước có giật mình nhận ra mối
nguy hiểm cận kề bấy lâu nay mà mình không biết, không linh cảm thấy
hoặc bị đủ thứ thành tích, đủ thứ sĩ diện, đủ thứ tham mưu hồ đồ của đám
nịnh thần nhan nhản làm cho bị che lấp đi? Có thể coi vụ Đoàn Văn Vươn
là tiếng pháo hiệu báo trước rằng một cơn dông tố đang hình thành và có
thể nổ ra bất cứ lúc nào. Phát pháo hiệu cô đơn đó được bắn lên vừa như
một cảnh báo, vừa như một lời kêu cứu, khi người bắn đã lâm vào thế cùng
đường có phần quẫn trí. Nhưng lẽ nào ánh sáng của nó lại hoàn toàn vô
dụng? Dù chỉ loé lên một cách bất hợp pháp, nó cũng đủ soi rõ rất nhiều
góc tối tăm trong xã hội, trong hệ thống luật pháp, hệ thống chính trị,
hệ thống đạo đức. Nó cho thấy rõ nhất những khoảng trống to lớn và nguy
hiểm mà nếu cứ để nó ngày một loang to, tức là không có hành động khả
thủ hàn lại, thì một sự sụp đổ thê thảm là tất yếu, một sự sụp đổ ngoài
mọi toan tính chính trị, ngoài mọi hình dung, ngoài mọi mong muốn… Không
gì đáng sợ hơn một xã hội mất sạch niềm tin vào tương lai, bị huỷ diệt
về ý chí.
Phát pháo hiệu Đoàn Văn Vươn cũng làm rõ ra cơ man là những gương mặt và tâm địa chuột. Chúng ta thiếu cả triệu Đoàn Văn Vươn – với tư cách là những nông dân thông minh, cần cù, tự trọng, làm giàu đẹp quê hương, sau đó là đất nước – trong
khi lại thừa nhan nhản những Lê Văn Hiền, Đỗ Trung Thoại, Nguyễn Văn
Khanh, Vũ Hồng Chuân … những kẻ đang tưởng mình có trong tay thứ quyền
lực vô biên để làm một cuộc chiến đấu với nhân dân thực sự. Thủ tướng đã kịp thời đưa ra những quyết định quan trọng để tạm yên dân, chứng tỏ ông đã linh cảm thấy tính tới hạn của sự chịu đựng
ở người dân, có nguyên nhân từ sự hư hỏng của bộ máy chính quyền. Nhưng
cái gì cho cấp dưới của ông ở địa phương sự điên rồ ấy là thứ mà xã hội
đòi hỏi phải truy đến cùng.
Hà Nội 20-2-2012
T. D. A.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
nguồn BVN