MAI THÁI LĨNH
Vào những tháng cuối năm 2011,
“Thác Bản Giốc” bỗng nhiên lại trở thành đề tài hàng đầu của báo chí
trong nước. Điều khiến cho các nhà báo cảm thấy bức xúc là tình trạng
mất cân đối giữa hai bên: trong khi ngành du lịch Trung Quốc thu hút
được gần một triệu du khách hàng năm nhờ vào thắng cảnh này
thì về phía Việt Nam, số lượng du khách đến thăm Thác Bản Giốc chỉ vào
khoảng 30 ngàn.
Thác Bản Giốc còn hay mất ? wmv
Nhiều lý do đã được nêu ra để lý giải: do cơ sở hạ tầng
còn yếu kém, chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, do “Hiệp định hợp tác
khai thác tài nguyên du lịch thác Bản Giốc” chưa được ký kết, v.v. Thậm
chí, trên báo Thanh Niên, các phóng viên còn biểu lộ lòng yêu nước bằng cách phê phán các báo phương Tây (như trang mạng News.com.au của Úc hay tạp chí Life của
Mỹ) đã “xâm hại nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ Việt Nam” khi chú thích
ảnh chụp Thác Bản Giốc là “Detian Falls, China” (Thác Đức Thiên, Trung
Quốc)[1].
Vấn đề đặt ra là: tại sao trong
khi chưa ký kết “hiệp định hợp tác”, phía Trung Quốc vẫn có thể tiến
hành khai thác du lịch một cách có hiệu quả không cần đến sự hỗ trợ của
phía Việt Nam? Ngược lại, tại sao phải cần đến một “hiệp định hợp tác”
thì Thác Bản Giốc của nước ta mới có thể “cất cánh”? Hơn thế nữa, tại
sao Thác Bản Giốc lại trở thành Thác Đức Thiên, tại sao một thác nước
trước đây được coi là của riêng ViệtNamnay lại trở thành “thác nước
chung” của hai quốc gia? Trên báo chí hợp pháp (thường được gọi là báo
chí “lề phải”), chưa thấy ai đặt ra những câu hỏi tương tự. Nhưng đó lại
là những câu hỏi quan trọng cần được giải đáp nghiêm túc trước khi trả
lời câu hỏi “ai mới thật sự là kẻ xâm hại nghiêm trọng chủ quyền lãnh
thổ ViệtNam?”.
1. Thác Bản Giốc có gì lạ?
Ảnh 1: Bản đồ huyện Thượng Lang – Cao Bằng thời Pháp thuộc. Hai chữ Ban Gioc trên bản đồ là “làng” Bản Giốc ở gần thác nước.
Thác Bản Giốc là một thắng cảnh
nổi tiếng của nước ta ở vùng biên giới Việt – Trung. Vào thời nhà Nguyễn
và thời Pháp thuộc, thác này nằm trong địa phận của huyện Thượng Lang,
ngày nay thuộc huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Trên các bản đồ của
vùng này, vị trí của thác nước thường không được ghi rõ; hai chữ “Bản
Giốc” được nhìn thấy trên bản đồ thật ra nhằm để chỉ một bản (làng) của người Tày ở gần thác nước chứ không nhằm chỉ vị trí của thác nước (Ảnh 1).
Điều gì làm cho Thác Bản Giốc trở thành đặc sắc so với tất cả các thác nước trên toàn cõi Việt Nam? Trong cuốn Thiên nhiên Việt Nam (ấn
bản năm 1977), nhà địa lý học Lê Bá Thảo đã miêu tả Thác Bản Giốc như
sau: “Sông Quây Sơn ở phía bắc Thượng Lang sau khi chảy qua một vùng đá
vôi rộng lớn đến Bản Giốc thì đổ vào khu vực đá phiến tạo thành ba bậc
thác nước chênh nhau đến 34 m. Vào mùa lũ (từ tháng 5 đến tháng 9), nước
từ các hốc ngầm đá vôi ở thượng lưu tuôn đến đổ xuống các bậc tung bọt
nước trắng xóa, làm đoạn thung lũng ở phía dưới thác mở ra rất rộng.
Đứng trên bãi cát ven sườn thung lũng, người ta có cảm tưởng bị vây
quanh bởi những bức tường nước đồ sộ nhưng chúng không hề gây cho chúng
ta cảm giác sợ hãi. Trái lại, phong cảnh lại cực kỳ đẹp đẽ và bình dị” [2].
“Ba bậc thác nước chênh nhau đến 34 m” chính là vẻ đẹp cốt lõi của Thác
Bản Giốc, làm cho nó khác hẳn tất cả các thác nước khác ở nước ta.
Ảnh
2: Toàn cảnh Thác Bản Giốc vào mùa nước cạn. Bờ nam (hữu ngạn) của sông
Quây Sơn là lãnh thổ của Việt Nam. Bờ bắc (tả ngạn) ngày nay thuộc lãnh
thổ của Trung Quốc.
Nếu nhìn một cách toàn diện, Thác
Bản Giốc bao gồm hai phần. Phần thác chính ở phía bắc là “ba bậc thác
nước chênh nhau đến 34m” như trên vừa nói – tạm gọi là “thác ba tầng”;
phần thác phụ ở phía nam là “ba dòng thác” đổ từ trên cao xuống tương tự
những thác thường thấy trong khắp cả nước, không có gì đặc sắc. Vào mùa
nước lớn, khi nước chảy tràn trề, người ta có thể nhìn thấy rõ ba dòng
thác làm nên thác phụ; nhưng đến mùa khô, nơi đây chỉ còn các dòng nước
teo tóp đổ vào một vũng nước hẹp. Vì thế có thể nói phần thác chính mới
là “linh hồn” của Thác Bản Giốc. Những hình ảnh ngày xưa thường thấy
trên các sách ảnh hay lịch treo tường thường là ảnh của phần thác chính.
Do đó trước đây mỗi khi nghe nói đến Thác Bản Giốc, ít ai biết đến phần
thác phụ. Điều đáng nói hơn cả là: vẻ đẹp của Thác Bản Giốc – dù là
thác chính nói riêng hay toàn bộ hai phần của thác, chỉ thể hiện một
cách trọn vẹn khi được nhìn ngắm từ chính diện hay từ phía “bờ bên kia”,
tức là bờ phía bắc (tả ngạn sông Quây Sơn). Từ bờNam(hữu ngạn), chúng
ta không thể nhìn thấy toàn cảnh của hai phần thác. Nếu chịu khó đi ra
tận doi đất ven sông ở hạ lưu, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy “thác ba
tầng”, nhưng chỉ có thể nhìn nghiêng chứ không thể nhìn được chính diện
(ảnh 3).
Như vậy, không cần phải là chuyên
gia về du lịch, chúng ta cũng có thể thấy ngay được sự thật: ai sở hữu
được bờ bắc (tả ngạn sông Quây Sơn) sẽ nắm được thế thượng phong trong
khai thác du lịch vì từ phía này, người ta có thể nhìn thấy toàn cảnh
của thác (kể cả hai phần chính và phụ), có thể đi ngược dòng sông bằng
thuyền bè đến tận chân thác, thậm chí có thể trèo lên tận đỉnh thác để
ngắm cảnh, chụp ảnh… Trong khi đó, người nắm giữ bờ phía nam không thể
giúp du khách nhìn ngắm tất cả các vẻ đẹp của thác – trừ khi phải nhờ
cậy phía bên kia.
Kể từ khi sở hữu được bờ bắc của
sông Quây Sơn, nhà cầm quyền Trung Quốc đã đưa Thác Bản Giốc vào danh
sách các điểm du lịch với cái tên mới là Đức Thiên (德天 , Detian). Theo
lộ trình thông thường, các du khách đi từ phía Trung Quốc sẽ được chở
bằng xe ca đến một địa điểm ở phía đông-nam của thác. Sau đó du khách sẽ
đi bộ một quãng đường và trên đường đi, họ có thể chụp được các tấm ảnh
toàn cảnh đẹp như tranh vẽ – kể cả phần thác phụ nằm trên lãnh thổ
ViệtNam. Du khách cũng có thể dùng bè để đi đến chân thác.
Một lợi thế khác của bờ bắc là du
khách có thể trèo lên thượng nguồn, mua sắm ở chợ trời biên giới để rồi
sau đó trở lại phía hạ lưu, không cần phải sang bờ phía nam.
Tóm lại, phía Trung Quốc có thể
tự mình khai thác du lịch ở thắng cảnh này. Ngược lại, nếu muốn khai
thác du lịch có hiệu quả, lôi kéo được khách quốc tế, phía ViệtNambuộc
phải nhờ vả ông bạn “16 chữ vàng”, mà đã nhờ vả thì đương nhiên phải
chấp nhận các điều kiện do phía bên kia đặt ra.
Việc Trung Quốc nắm được ưu thế
trong kinh doanh du lịch ở khu vực Thác Bản Giốc không cần đến Việt Nam
đã mặc nhiên bác bỏ luận điệu của các nhà ngoại giao khi cho rằng “trong
việc phân chia, ta vẫn được phần nhiều hơn vì được toàn bộ phần thác
phụ cộng với một nửa phần thác chính”. Thật ra, cách lập luận này của
ông Vũ Dũng (Thứ trưởng Bộ Ngoại giao) vào năm 2009 chỉ là một sản phẩm
của thuật ngụy biện nhằm lừa dối dư luận. Nếu xem xét Thác Bản Giốc như
một thắng cảnh đẹp, một tài nguyên thiên nhiên thì vấn đề chính không
phải là giữ được phần nhiều hơn (toàn bộ thác phụ cộng với một nửa của thác chính), bởi vì phần bị mất đi (nửa thác chính) tuy ít hơn, nhưng cộng với toàn bộ bờ bên trái sông Quây Sơn lại chính là phần đẹp nhất, phần quan trọng nhất của
thắng cảnh. Bài toán chủ quyền không chỉ đơn thuần là một bài toán cộng
trừ như ông Vũ Dũng (và những người lãnh đạo ở phía sau) đã “tính
toán”. Đó là chưa kể đến giá trị của bờ bắc (tả ngạn) sông Quây Sơn xét
về mặt quốc phòng, giá trị mà không có bài toán số học nào có thể lấp
liếm được, như chúng ta sẽ tìm hiểu ở phần sau.
2. Tại sao phải chia một phần Thác Bản Giốc cho Trung Quốc?
Trong một cuộc trả lời phỏng vấn dành cho Thu Uyên (phóng viên của trang mạng VASC Orient) [3] vào đầu năm 2002, ông Lê Công Phụng (lúc đó là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao) đã phát biểu như sau:
“Ông LCP: Về thác Bản Giốc, thì
đây là điều rất phức tạp. Chúng tôi cũng rất lạ là trong sách sử của
chúng ta và Trung Quốc từ năm 1960 đến nay, không ai nói thác Bản Giốc
có phần là của Trung Quốc. Ngay Trung Quốc cũng không nói đấy là của
Trung Quốc. Còn đối với chúng ta, thác này đã đi vào sử sách, nhất là
sách giáo khoa của học sinh, thành di tích, điểm du lịch được nhiều
người ưa chuộng. Đây là điều mà chúng tôi rất khó hiểu, bởi lẽ trong
công ước giữa nhà Thanh và Pháp, thác Bản Giốc chỉ thuộc về chúng ta có
1/3 thôi; và theo thực trạng cột mốc được cắm từ thời nhà Thanh, thì
chúng ta cũng chỉ được 1/3 thác.
VASC Orient: Tức là cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh?
Ông LCP: Đúng vậy. Cột mốc đang
tồn tại đã được cắm từ thời Thanh, xác định chỉ có chưa được một nửa
thác Bản Giốc là ở bên phía ta. Theo quy định quốc tế, khi phân giới cắm
mốc thì thác được coi như một dòng sông, một dòng suối. Đã là sông suối
thì đường biên giới đi qua luồng chính, tức là chỗ tàu thuyền đi lại
được. Còn đối với sông suối nơi tàu thuyền không đi lại được, thì đường
biên giới phải đi theo rãnh sâu nhất.
VASC Orient: Chẳng nhẽ tất cả các
khách du lịch, trong đó có những người có trách nhiệm, đi thăm thác Bản
Giốc mà không phát hiện ra cột mốc nằm đó hay sao?
Ông LCP: Cột mốc không nằm sát
Bản Giốc. Khi chúng tôi khảo sát thì mới thấy cột mốc nằm trên một cồn
nhỏ ở giữa suối, cách đấy khoảng mấy trăm thước. Vì vậy nên cũng không
mấy ai quan tâm đến cột mốc ở thác Bản Giốc.
Trước tình hình như vậy, chúng
tôi nghĩ rằng trong đàm phán phải hợp lý, thỏa đáng phù hợp với mặt pháp
lý. Chúng ta phải căn cứ vào những thỏa thuận pháp lý Thanh – Pháp, căn
cứ vào biểu đồ, căn cứ vào cột mốc hiện có mà dân địa phương nói là cột
mốc đó từ xưa đến nay chưa ai thay đổi cả. Cuối cùng, lãnh đạo chúng ta
cũng nhất trí trong tất cả các điều kiện ấy, không thể đòi hỏi thác Bản
Giốc phải là của chúng ta hoàn toàn được. Lẽ ra theo thực tiễn thì
chúng ta chỉ được 1/3. Nhưng sau đàm phán, chúng ta và bạn đã thỏa thuận
thác Bản Giốc được chia đôi, mỗi bên được 50%. Hiện nay cả 2 bên đang
tiến hành khai thác du lịch phía bên mình.
Ở chỗ này, nếu nói chúng ta bán
đất thì hoàn toàn vô lý. Pháp lý lẫn thực tiễn đều không cho phép chúng
ta giữ chủ quyền trên toàn bộ thác Bản Giốc” [4].
Tóm lại, theo ông Lê Công Phụng,
do phát hiện một cột mốc “nằm trên một cồn nhỏ ở giữa suối” cách Thác
Bản Giốc “khoảng mấy trăm thước”, cho nên đoàn đàm phán của Việt Nam mới
phải tính toán lại chủ quyền đối với Thác Bản Giốc.
Tấm bản đồ 186 C về khu vực tranh chấp cồn Pò Thoong được công bố trên báo Diễn đàn của
Việt kiều tại Pháp vào năm 2002 (xem ảnh 7). Được giới thiệu là “tài
liệu mật” rò rỉ từ Thường trực Bộ Chính trị ĐCSVN, tài liệu này nhằm
giải thích lý do tranh chấp giữa hai bên. Vì “phát hiện” ra cột mốc 53
cho nên dựa theo “luật pháp quốc tế”, đường biên giới phải chạy ở phía
nam cồn Pò Thoong dựa vào trung tuyến của dòng chảy chính và như thế,
toàn bộ cồn Pò Thoong phải thuộc về Trung Quốc; phía Việt Nam chỉ được 1
phần 3 của thác chính.
Theo giải thích chính thức đăng trên Tạp chí Cộng sản thì
sau nhiều lần đàm phán gay go, hai bên đã đạt thỏa thuận: “Đường biên
giới đi từ mốc 53 (cũ) lên cồn Pò Thoong rồi đến điểm giữa của mặt thác
chính. Như vậy, toàn bộ thác phụ và 1/2 thác chính quy thuộc Việt Nam.
Hai bên cũng thoả thuận sẽ bàn bạc việc hợp tác phát triển tiềm năng du
lịch tại Thác Bản Giốc” [5].
Nhìn vào tấm bản đồ do Bộ Ngoại
giao Việt Nam công bố (ảnh 8), chúng ta thấy đường biên giới được vạch
từ cột mốc số 835 (là cột mốc mới thay cho cột mốc 53 trước đây) đi qua
cồn Pò Thoong (trong ảnh ghi là cồn Pò Đon) đến điểm giữa của
thác chính (thác ba tầng) và sau đó đường biên giới chạy theo trung
tuyến của dòng sông Quây Sơn. Để giải quyết tranh chấp theo cách phân
chia phức tạp đó, từ cột mốc 835 còn sinh ra thêm nhiều cột mốc phụ: cột
mốc phụ 835/1 nằm sát bờ sông, cột mốc phụ 835/2 nằm trên cồn Pò Thoong
và hai cột mốc phụ ở hạ lưu: 836 (1) nằm ở tả ngạn trên lãnh thổ Trung
Quốc và 836 (2) nằm trên doi đất thuộc lãnh thổ Việt Nam (giữa thác
chính và thác phụ).
Nhưng tại sao cồn Pò Thoong lại
bị chia cắt theo công thức “1 phần 4 thuộc về Việt Nam, 3 phần 4 thuộc
về Trung Quốc”? Ông Nguyễn Hồng Thao, Phó giáo sư Tiến sĩ, thành viên
đoàn đàm phán, giải thích như sau: “Tại khu vực thác Bản Giốc, theo quy
định của Hiệp ước 1999, luật pháp và thông lệ quốc tế, đường biên giới
đi theo trung tuyến dòng chảy phía Nam cồn Pò Thoong, hai bên đã điều
chỉnh đường biên giới đi qua cồn Pò Thoong, qua dấu tích trạm thủy văn
xây dựng những năm 1960, quy thuộc 1/4 cồn, 1/2 thác chính và toàn bộ
thác cao cho Việt Nam” [6].
Điều đó có nghĩa là: đáng lẽ
“theo quy định của Hiệp ước 1999, luật pháp và thông lệ quốc tế” thì cồn
Pò Thoong (rộng khoảng 2,6 hec-ta) hoàn toàn thuộc về Trung Quốc, nhưng
do “ta đã đấu tranh quyết liệt và bạn đã nhân nhượng”, cho nên hai bên
mới điều chỉnh đường biên giới để Việt Nam còn sở hữu được 1 phần 4 cồn.
Nhưng điều kỳ lạ là trên cồn Pò Thong còn có “dấu tích Trạm thủy văn
xây dựng vào những năm 1960”. Trạm thủy văn này do ai xây dựng; kẻ xây
dựng đó là kẻ lấn chiếm hay là kẻ sở hữu cồn Pò Thong? Không thấy ai
giải thích rõ điều này.
Có một chi tiết cho thấy cách tư
duy và lập luận rất kỳ lạ của các nhà ngoại giao ViệtNam: phần thác
chính (ba tầng) được gọi là “thác thấp”, phần thác phụ (ba dòng) lại
được gọi là “thác cao”. Độc giả có thể nhìn vào ảnh 9 để thấy giữa “thác
cao” ở phía trái và “thác thấp” ở phía bên phải, bên nào cao hơn bên
nào?
3. Ai là chủ nhân thật sự của Thác Bản Giốc?
Như trên đã dẫn, ngay cả ông Lê
Công Phụng cũng cảm thấy khó hiểu: “Chúng tôi cũng rất lạ là trong sách
sử của chúng ta và Trung Quốc từ năm 1960 đến nay, không ai nói thác Bản
Giốc có phần là của Trung Quốc. Ngay Trung Quốc cũng không nói đấy là
của Trung Quốc”. Điều làm chúng ta ngạc nhiên là nếu thật sự cảm thấy
“khó hiểu”, tại sao các nhà ngoại giao lại không tham khảo ý kiến của
giới trí thức?
Nếu xét về tài liệu thì chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở để chứng minh toàn bộ Thác Bản Giốc là của Việt Nam. Chỉ xin dẫn chứng một số tài liệu sau đây:
1) Trước hết là tài liệu của nhà địa lý học Lê Bá Thảo. Trong cuốn sách Thiên nhiên Việt Nam
đã dẫn (ấn bản 1977), tại trang 78, có đăng tấm ảnh chụp cảnh Thác Bản
Giốc nhưng chỉ chụp thác chính, tức thác ba tầng (xem ảnh 10).
Điều đáng chú ý là dòng ghi chú
bên dưới: “Trên sông Quây Sơn ở ngay biên giới”. Nhìn vào tấm ảnh, chúng
ta thấy ảnh được chụp từ một doi đất nằm ở hạ lưu của thác chính phía
bên bờ bắc (tả ngạn sông Quây Sơn). Đây chính là bằng chứng cho thấy ở
tả ngạn của dòng sông phía dưới chân thác chính vẫn có một phần đất
thuộc lãnh thổ ViệtNam. Ngày nay phần đất này đã chính thức bị cắt cho
phía Trung Quốc cho nên người Việt không còn có thể đứng trên lãnh thổ
của mình để chụp những tấm ảnh tương tự.
Cũng trong cuốn sách nói trên, có
một bản đồ “Miền Đông-Bắc” đăng ở trang 41 (ảnh 11). Nhìn vào tấm bản
đồ này, chúng ta thấy địa điểm Thác Bản Giốc nằm trong nội địa nước ta.
Mặc dù đây chỉ là một tấm bản đồ vẽ tay, nhưng một khi tác giả (vốn là
một nhà địa lý học nổi tiếng của miền Bắc) đã dám ghi vị trí của thác
nước như thế, chắc hẳn ông phải dựa vào tài liệu địa lý chính xác cùng
với sự kiểm tra thực địa. Vì vậy, có thể coi đây là một tài liệu đáng
tin cậy.
2) Tác giả Trương Nhân Tuấn ở hải ngoại tìm được một cuốn sách xuất bản năm 1895 có tên là Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si (Ở Bắc Kỳ và trên vùng biên giới Quảng Tây) của Thiếu tá Famin – Phó Chủ nhiệm Ủy ban cắm mốc biên giới Trung-Việt năm 1894 [7]. Tại trang 12 và 13 có đoạn viết về Thác Bản Giốc:
“Trong phần phía Bắc (của khu quân sự thứ hai, Deuxième Territoire) [8],
dòng sông xinh đẹp mang tên Qui-Thuận chảy ngang qua đó theo hướng Phủ
Trùng Khánh. Đây là một phụ lưu trực tiếp của sông Tây Giang (Si-Kiang).
Dòng sông này rộng 60 m, đi vào đất Bắc Kỳ bằng cửa Ai Lung và ra khỏi
nơi đây (để vào đất Trung Hoa) tại một điểm gần đồn Trung Hoa có tên
Nam-Ton, sau khi đã tưới một thung lũng rộng lớn cực kỳ phì nhiêu.
Hai ki-lô-mét trước khi rời đất
Bắc Kỳ, dòng sông vượt qua một ghềnh đá và làm thành một thác nước tuyệt
đẹp cao 40 m. Cột nước khổng lồ rơi ầm ầm xuống một bồn nước thứ nhất,
từ đó nó nảy lên thành những chùm tia nước sủi bọt trên những bậc thang
đá vôi nhẵn bóng. Vào mùa mưa, thác nước này trưng ra một dáng vẻ tuyệt
vời, tiếng động của thác nước có thể nghe được từ xa và dội vào những
vách núi nghe như tiếng sấm, trong khi những đám mây hơi nước hình thành
ở vùng lân cận và tan ra thành một đám mưa nhỏ thật sự”.
Trong đoạn văn này, cần chú ý đến
câu: “Hai ki-lô-mét trước khi rời đất Bắc Kỳ, dòng sông vượt qua một
ghềnh đá và làm thành một thác nước tuyệt đẹp cao 40 m”. Câu này cho
thấy “thác nước tuyệt đẹp” (tức Thác Bản Giốc) cách điểm dòng sông Qui
Thuận (tức sông Quây Sơn) rời lãnh thổ Việt Nam khoảng 2 km. Nói cách
khác, ở bờ trái (tả ngạn) của sông, có một dải đất dài khoảng 2 km thuộc
lãnh thổ Việt Nam. Như thế trong khoảng 2 km tính từ Thác Bản Giốc,
đường biên giới không thể là trung tuyến của dòng sông như “cách thức
phân giới” mà các nhà ngoại giao của hai nước đã “sáng tạo” ra dựa theo
Hiệp ước 1999.
Một điều đáng chú ý khác trong
đoạn văn này: tên sông được ghi là Qui-Thuan (Qui-Thuận). Trong bài viết
“Biên Giới Việt Nam: vùng tiếp giáp tỉnh Quảng Tây”, dựa trên tài liệu
của nhà Thanh, ông Trương Nhân Tuấn cho biết sông Long (tức Tả Giang) có
một phụ lưu tên là sông Qui Thuận và ở sát biên giới Việt Nam có một
châu tên là Châu Qui Thuận 歸順州 [9]. Điều này phù hợp
với Đại Nam Nhất Thống Chí, vì sách này cho biết giáp với Phủ Trùng
Khánh về phía bắc là “châu Qui Thuận thuộc phủ Trấn Yên nước Thanh” [10]. Chúng
ta có thể phỏng đoán: tên của dòng sông bắt nguồn từ tên của địa phương
(châu Qui Thuận) – nơi phát nguyên của sông. Trong các bản đồ cũ, tên
phiên âm la-tinh của sông Quây Sơn là Kouei Chouan; nhưng trong các tài
liệu của Trung Quốc ngày nay, tên của dòng sông Quây Sơn là Guichun,
歸春河, đọc theo âm Hán-Việt là “Qui Xuân hà”.
3) Trong số các bưu ảnh do nhà
nhiếp ảnh Pierre Dieulefils chụp, chúng ta tìm thấy tấm ảnh mang số 832.
Tấm ảnh này được ghi chú như sau: “TONKIN – Région de Cao-Bang –
Cascade de Ban-Giot – Passage du gué par une compaghie de tirailleurs
tonkinois” (BẮC KỲ – Vùng Cao Bằng – Thác Bản Giốc – Một đại đội lính
bản xứ Bắc Kỳ lội qua sông).
Ảnh 13: Bưu ảnh 832 của Pierre Dieulefils: Thác Bản Giốc – Một đại đội lính bản xứ Bắc Kỳ lội qua sông.
Nhìn vào tấm bưu ảnh (ảnh 13),
chúng ta thấy những người lính Việt dưới sự chỉ huy của một người Pháp
đang lội qua sông từ phía bên kia (tả ngạn) vào mùa nước cạn. Thác trong
ảnh là thác chính ba tầng chứ không phải thác phụ ba dòng. Điều này
chứng minh bờ phía bắc (tả ngạn sông Quây Sơn) ngay dưới chân thác là
đất của Bắc Kỳ (Việt Nam) chứ không phải đất của Trung Quốc, vì thế chỉ
huy người Pháp và binh lính người bản xứ mới có thể đi tuần tra bên kia
bờ sông và từ bên đó trở về.
3) Trong bài viết “Tấc đất tấc vàng” được công bố vào năm 2005 [11],
ông Hàn Vĩnh Diệp – một đảng viên ĐCS, cán bộ hưu trí, người đã từng
nhiều năm công tác ở vùng Cao Bằng trước năm 1975, kể lại:
“Năm 1965 chúng tôi được tham gia
đoàn khảo sát thực tế để biên soạn sách giáo khoa – Tập đọc cấp I của
Khu giáo dục Khu tự trị Việt Bắc. Hai khu giáo dục ngoài nhiệm vụ biên
soạn sách giáo khoa vở lòng – cấp I tiếng Thái, Mèo, Tày – Nùng; còn
phải soạn cả sách giáo khoa Tập đọc tiếng Việt. Một trong những điểm
khảo sát đợt ấy là Kênh Copáo và thác Bản Giốc thuộc huyện
Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng. Kênh Copáo lấy nguồn nước từ một đầm trũng
bên kia biên giới Trung Quốc (huyện Tỉnh Tây, Quảng Tây) cho các cánh
đồng phía Bắc huyện Trùng Khánh. (…) Đến thác Bản Giốc, chúng tôi sang
cả bên bờ Bắc sông Quây Sơn, vào sâu hơn một cây số vẫn là làng bản dân
ta”.
4) Trong bài báo đăng trên Vietnam Net đã
được trích dẫn, Tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao – thành viên đoàn đàm phán, đã
tiết lộ: trên cồn Pò Thoong vẫn còn “dấu tích trạm thủy văn xây dựng
những năm 1960”.
Nếu xem lại “bị vong lục” (hay còn gọi là giác thư, memorandum)
năm 1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam, chúng ta thấy có đoạn: “Tại khu
vực mốc 53 (xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy
Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh
cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 29 tháng 2 năm 1976, phía Trung Quốc
đã huy động trên 2.000 người, kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng
rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh
thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng
bê-tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm
phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong và ngang nhiên nhận
cồn này là của Trung Quốc” [12].
Như vậy, trạm thủy văn này rõ
ràng là do phía Việt Nam xây dựng, bởi vì trước năm 1976, cồn Pò Thoong
vẫn còn thuộc về lãnh thổ Việt Nam và “chính quyền Bắc Kinh cũng đã công
nhận sự thật đó”. Đây chính là một bằng chứng hùng hồn về chủ quyền của
ViệtNamđối với cồn Pò Thoong.
Việc Trung Quốc dùng vũ lực xâm
chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và phá hủy trạm thủy văn ở nơi đó không
thể che lấp được sự thật: trước đó ViệtNamlà chủ sở hữu của cồn này, và
đương nhiên là chủ sở hữu của toàn bộ Thác Bản Giốc. Toàn bộ hồ sơ về
việc thành lập và quá trình hoạt động của trạm thủy văn chính là một
bằng chứng về chủ quyền của ViệtNam. Điều này chứng tỏ cột mốc 53 nằm
sai vị trí, và việc nó bị dời đến địa điểm hiện nay là do phía Trung
Quốc thực hiện sau khi đã chiếm cồn Pò Thoong.
Ngược lại, nếu khẳng định như ông
Lê Công Phụng rằng cột mốc 53 đã tồn tại nơi đó (trước mặt cồn Pò
Thoong) từ khi ký hiệp định Pháp-Thanh thì kẻ xâm chiếm cồn Pò Thoong,
vi phạm hiệp định Pháp-Thanh chính là chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa khi cho xây dựng trạm thủy văn vào thập niên 1960. Khi công bố điều
này, không lẽ ông Lê Công Phụng muốn chuẩn bị cho tình huống Đảng cộng
sản Việt Nam sẽ công khai xin lỗi Đảng cộng sản Trung Quốc về việc xâm
chiếm cồn Pò Thoong vào thập niên 1960?
Tóm lại, từ chỗ là một thác nước
hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam, sau hiệp ước 1999 một phần thác
chính lại trở thành sở hữu của Trung Quốc. Từ chỗ toàn bộ bờ phía bắc
tính từ phía trên thác cho đến tận chân thác đều là của Việt Nam, ngày
nay toàn bộ bờ bắc – tính từ cột mốc 835 mới cho đến hạ lưu, lại nằm
trong lãnh thổ Trung Quốc. Sự thay đổi kỳ quặc này nhất định là có liên
quan đến cái cột mốc số 53 gây bất ngờ nói trên.
Để hiểu rõ sự thật, chúng ta cần tìm hiểu cột mốc số 53, đúng hơn là vị trí của cột mốc 53.
Phải chăng nó vẫn nằm ở vị trí đó từ khi có hiệp định Pháp-Thanh như
các vị chức sắc Bộ Ngoại giao nước ta vẫn khăng khăng khẳng định? Hay nó
là một thứ “cột mốc có chân” có thể di chuyển từ nơi này sang nơi khác
theo thời gian?
4. Đâu là vị trí thật sự của cột mốc số 53?
Nhìn vào tấm bản đồ trích từ Bản đồ giao thông năm 2004
(ảnh 16), chúng ta thấy dòng chính của sông Quây Sơn chảy vào lãnh thổ
Việt Nam tại một điểm gần cửa khẩu Pò Peo và rời lãnh thổ nước ta tại
một điểm gần cửa khẩu Lý Vạn. Điều đáng chú ý là tại một điểm ở gần Thác Bản Giốc, dòng sông lại trở thành đường biên giới (có nghĩa là trung tuyến của dòng sông chính là đường biên giới). Điểm đó
có liên quan đến cột mốc số 53, vì thế cột mốc này là căn cứ chủ yếu để
xác định chủ quyền đối với Thác Bản Giốc. Nói cách khác, nếu cột mốc
này bị dời đến một vị trí khác thì chủ quyền của ViệtNam đối với Thác
Bản Giốc sẽ bị ảnh hưởng.
Trong khi sưu tầm tài liệu về Thác Bản Giốc, tác giả Trương Nhân Tuấn đã tìm được một số chứng cứ quan trọng liên quan đến vị trí của cột mốc số 53 [13]:
- Trước hết là biên bản
Pháp-Thanh ký ngày 19-6-1894 trong đó xác định: cột mốc số 53 có tên là
Pan-Ngô (Bách-Nga Khẩu百峨口 ), được cắm “ bên lề một con đường, ở phía
Tây-Nam và trên phần nối dài của một khu rừng nhỏ” (Au bord du chemin et
au SO et sur le prolongement d’un petit bois). Cột mốc số 54 có tên là
Lung Trang (Lũng Tằng Sơn 隴曾山) được đặt tại vị trí “giữa chân của các
núi đá và ranh giới của các ruộng lúa phía trước mặt Ban Mong” (Entre le
pied des rochers et la limite des cultures en face Ban-Mong).
- Cuốn “Nhật Ký của Trung Úy
Détrie về đoạn biên giới từ Lũng-Ban đến Ðèo-Lương, nhân dịp đảm nhận
việc cắm mốc (28-6-1894)”, trong đó có một đoạn xác định vị trí của các
cột mốc, được trích dẫn như sau: “Après la porte de Dốc-Khánh la
frontière est tracée à l’intérieur du massif rocheux, laissant au Tonkin
de petit cirques peu importants débouchant dans Lung-Piac, près les
deux cirques difficilement accessibles de Lung-Deng et Lung-Moi que
traversent les chemins conduisant à Thin-Thang par Ai-Thin-Thap (56) et
Lung-Moi (55) jusqu’à l’abornement, les habitants de Lung-Deng et
Lung-Moi payaient l’impôt aux Chinois. La frontière regagne ensuite le
pied des rochers en face du village de Ban-Mong (54) longe le pied de
ces rochers et au pied du blockhaus chinois de Pia-Mu, suit la lisière
d’un petit bois et coupe le chemin de Hang-Dong-Quan (53) pour atteindre
la rivière qu’elle suivra jusqu’à Ly-Ban. Le chemin qui de la borne 53
conduit à Dốc-Khánh (57) à travers de très belles rizières devra être
l’objet d’une surveillance constante. (…) A partir de la belle cascade
de 50m qui se trouve un peu en aval de la borne 53, le sông Qui-Xuân
coule resserré entre des mamelons élevés” (Đoạn văn này sẽ được dịch ở
phần sau).
Câu hỏi đặt ra là: cột mốc 53 nằm ở thượng lưu hay hạ lưu của thác? Theo
suy luận của ông Trương Nhân Tuấn thì “cột mốc chỉ có thể ở phía
hạ lưu của thác Bản Giốc”. Thế nhưng điều này lại mâu thuẫn với ý kiến
của trung úy Détrie vì ông này ghi nhận thác nước “nằm cách một chút về
phía hạ lưu của cột mốc 53” (qui se trouve un peu en aval de la borne
53), nghĩa là “cột mốc nằm nhích một chút về phía thượng lưu của thác
nước”.
- Về bản đồ: có một tấm bản đồ
tìm được trong một thư khố ở Pháp liên quan đến vùng này (xem ảnh 18).
Theo ghi chú của tác giả, đây là bản đồ có tỷ lệ 1/50.000 do Nha địa dư
Đông Dương (Service géographique de l’Indochine) thực hiện. Thật ra, nếu
so sánh tấm bản đồ này với các bản đồ của miền Nam Việt Nam phát hành
trước năm 1975, chúng ta có thể thấy rõ đây không phải là bản đồ tỷ lệ
1/50.000.
Để độc giả dễ phân biệt, tôi đã
trích đoạn và phóng to một phần nhỏ của bản đồ và xoay bản đồ cho đúng
hướng bắc-nam (ảnh 19). Chúng ta có thể nhận thấy: từ cột mốc 54 (B.54)
phía tây-bắc đến cột mốc 53 (B.53, chữ viết tắt của borne 53)
phía đông-nam, có một dải đất ven sông nằm trong lãnh thổ Việt Nam. Điều
này giải thích lý do tại sao trước đây người Việt có thể qua lại giữa
hai bờ sông một cách dễ dàng. Ngoài ra, còn có một chi tiết khiến chúng
ta có thể bác bỏ ý kiến của ông Lê Công Phụng cho rằng “cột mốc nằm trên
một cồn giữa suối cách thác vài trăm mét”. Trên tấm bản đồ này, cột mốc
53 (B.53) hoàn toàn nằm trên bờ trái (tả ngạn của sông Quây Sơn), không
liên quan gì đến một “cồn” nào đó trên sông Quây Sơn. Tấm bản đồ này
cũng cho thấy có một đồn của Trung Quốc (Fort Chinois) nằm trên đỉnh
núi.
Nhược điểm của tấm bản đồ này là
thiếu các vòng cao độ (contour lines, courbes de niveau) cũng như các
tọa độ địa lý cần thiết để xác định một cách chính xác vị trí của cột
mốc. Mặt khác, nó cũng không ghi rõ vị trí của Thác Bản Giốc, cho nên
rất khó xác định vị trí của cột mốc số 53.
Thật ra, có một tấm bản đồ có thể
giúp chúng ta tìm hiểu đường đi của biên giới từ cột mốc 57 cho đến cột
mốc 53. Đó là tờ bản đồ địa hình (topographic map) mang tên Trung Khanh Phu, sheet 6354-4 được tìm thấy ở Thư viện của Đại học Texas ở Austin (The University of Texas at Austin) [14]. Tờ bản đồ này (ảnh 20) có tỷ lệ 1/50000, do quân đội Hoa Kỳ in vào năm 1965, dựa vào thông tin thu thập được vào năm 1964.
Làm thế nào mà quân đội Hoa Kỳ có
được tờ bản đồ này? Căn cứ vào ghi chú trên tờ bản đồ, chúng ta có thế
ước đoán bản đồ này được biên soạn dựa trên dữ liệu của Nha Địa dư Đông
dương (Service géographique de l’Indochine) trước kia và cả trên những
thông tin do chính quân đội Hoa Kỳ thu thập được.
Ngoài ra, còn có một tờ bản đồ mang tên Trùng Khánh, số hiệu 6354-IV do
Cục bản đồ thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam in năm
1980, rất giống với tờ bản đồ nói trên. Tờ bản đồ này nằm trong Bộ sưu
tập Bản đồ Việt Nam (Vietnam Archive Map Collection) do Đại học Kỹ Thuật
Texas (Texas Tech University) sưu tầm và công bố [15]. Tờ
bản đồ này được “in lần thứ hai” (1980) dựa theo bản đồ 1/50.000 in năm
1976 đã được “chỉnh lý bổ sung thực địa vào năm 1979”. Chúng ta có thể
phỏng đoán tờ bản đồ này được biên soạn dựa vào bản đồ Trung Khanh Phu, sheet 6354-4 của
quân đội Hoa Kỳ, vì sau ngày 30-4-1975 quân đội miền Bắc đã tiếp quản
toàn bộ kho bản đồ lưu trữ tại Nha Địa dư Quốc gia ở Đà Lạt.
Cần lưu ý là bản đồ này được in
lần thứ nhất vào năm 1976 – cùng thời điểm với việc Trung Quốc tấn công
cồn Pò Thoong, có lẽ vì thế trên bản đồ có ghi dòng chữ “quốc giới chưa
xác định (vẽ sơ lược)”. Để độc giả dễ theo dõi, tôi trích bản đồ Trùng Khánh 6543-IV và phóng lớn thành hai tấm: từ mốc 58 đến mốc 54 (ảnh 21) và từ mốc 54 đến mốc 53 (ảnh 22).
Dựa vào bản đồ, chúng ta có thể
thấy rõ đường biên giới từ cột mốc 57 (M. 57) đến cột mốc 55 (M.55) đúng
như Détrie mô tả: “Sau cửa Dốc-Khánh, đường biên giới được vạch trong
lòng dãy núi đá, để lại cho Bắc Kỳ các thung lũng hẹp ít quan trọng mở
ra phía Lung-Piac (Lũng Phiắc). (Đường biên giới) chạy gần hai thung lũng rất khó thâm nhập là Lung-Deng (Lung Den) và Lung-Moi (Lung Noi); băng ngang qua các thung lũng này là những con đường dẫn đến Thin-Thang (T’ien-teng) qua ngõ Ai-Thin-Thap (mốc 56) và Lung-Moi (Lung Noi, mốc 55) đến tận vùng cắm mốc. Người dân của Lung-Deng (Lung Den) và Lung-Moi (Lung Noi) đóng thuế cho người Trung Hoa” [16].
Détrie viết tiếp: “Tiếp đó, đường biên giới trở lại chân các núi đá trước mặt làng Ban-Mong (Bản Mom,
mốc 54), chạy dọc theo chân của các núi đá ấy và dưới chân của đồn
Pia-Mu của Trung Hoa, chạy dọc theo bìa của một khu rừng nhỏ và cắt con
đường Hang-Dong-Quan (mốc 53) để đi đến dòng sông – dòng sông mà đường
biên giới chạy xuôi theo cho đến tận Ly-Ban (Lý Vạn). Con đường
đi từ mốc 53 dẫn đến Dốc-Khánh (mốc 57) đi ngang qua những ruộng lúa
xinh đẹp sắp đến phải được giám sát thường xuyên. (…) Từ thác nước đẹp
cao 50 m - nằm nhích một chút về phía hạ lưu của cột mốc 53, sông
Qui-Xuân [17] chảy thu hẹp lại giữa những ngọn đồi cao”.
Nhìn vào bản đồ, chúng ta thấy rõ
con đường đi từ mốc 53 ở phía đông-nam đến mốc 57 ở phía tây-bắc “đi
ngang qua những ruộng lúa xinh đẹp”. Con đường này chạy dưới chân các
dãy núi đá, men theo các thung lũng, có ý nghĩa quan trọng về mặt quốc
phòng; vì thế Détrie cho rằng “sắp đến cần phải canh phòng thường
xuyên”. Chúng ta cũng có thể thấy rõ đường biên giới cắt ngang “con
đường Hang-Dong-Quan” (le chemin de Hang-Dong-Quan) tại cột mốc số 53.
Sau khi vượt qua biên giới ở mốc 53 gần Thác Bản Giốc, con đường
Hang-Dong-Quan chạy men bờ sông (tả ngạn sông Quây Sơn), trên phần đất
thuộc lãnh thổ Trung Hoa. Vào thời kỳ đó (cuối thế kỷ 19) và có thể mãi
cho đến năm 1979 (là lúc phát hành tờ bản đồ Trùng Khánh 6354-IV của QĐNDVN), con đường đó chỉ là đường đất hoặc đường mòn.
Có thể nói hai tờ bản đồ 6354-4
mang tên Trùng Khánh Phủ và Trùng Khánh hoàn toàn ăn khớp với những gì
trung úy Détrie đã mô tả trong nhật ký. Cả hai tờ bản đồ này cũng cho
thấy thác nước “nằm nhích một chút về phía hạ lưu của cột mốc 53”. Điều
đó có nghĩa là cột mốc “nằm nhích một chút về phía thượng lưu của thác”,
nhưng không nằm sát bờ sông. Từ cột mốc 53, đường biên giới chạy theo
hướng tây bắc-đông nam dựa theo đường rãnh giữa thác nước và ngọn đồi
tiếp giáp, cắt một diện tích đất ở phía dưới chân thác cho phía Việt Nam trước khi nhập vào đường trung tuyến của dòng sông (xem ảnh 23).
Như vậy, toàn bộ thác Bản Giốc
đều thuộc về ViệtNam, toàn bộ dải đất chạy dài từ dưới chân thác lên đến
cột mốc 53, dọc theo chân dãy núi đá cho đến tận cột mốc 54 cũng thuộc
phía ViệtNam. Điều này giúp chúng ta lý giải được tại sao toán lính
người Việt dưới quyền chỉ huy của một người Pháp lại có thể đi tuần tra
từ bên kia sông và quay trở về bờ bên này trong mùa nước cạn. Rõ ràng
toán lính này đã tuần tra trên con đường mòn ở phía tả ngạn mà Détrie đã
nhắc đến, đi từ phía trên thác để xuống chân thác, lội sông trở về phía
hữu ngạn của sông Quây Sơn (xem bưu ảnh số 832 của P. Dieulefils). Cũng
nhờ đứng trên mảnh đất này, nhà nhiếp ảnh mới chụp được tấm ảnh về Thác
Bản Giốc được đăng trong cuốn sách của nhà địa lý học Lê Bá Thảo (ấn
bản năm 1977). Ngày nay, chúng ta không thể đứng trên lãnh thổ Việt Nam
để chụp được một tấm ảnh tương tự, bởi vì dải đất này đã bị cắt cho phía
Trung Quốc.
Mặt khác, đường biên giới từ mốc
54 đến mốc 53 chạy dọc theo chân của dãy núi đá vôi. Với địa thế hiểm
trở như ở vùng này (xem ảnh 24), cho dù phía Trung Quốc có thể đóng đồn ở
trên núi cao (trong bản đồ của Hoa Kỳ ghi chữ fort, trong bản đồ của Việt Nam in chữ đồn),
quân đội của họ cũng không thể xâm nhập vào các thung lũng bên dưới.
Thế nhưng, tình hình hoàn toàn sẽ đổi khác nếu phía Trung Quốc đặt được
một đầu cầu xuống vùng thung lũng bên dưới. Đầu cầu đó giúp họ có thể
tấn công bất cứ điểm nào ở những thung lũng dọc sông Quây Sơn, với sự
yểm trợ của pháo binh đặt trên những điểm cao. Điều đó giải thích được
nguyên do tại sao phía Trung Quốc từ lâu đã có âm mưu chiếm cồn Pò
Thoong, một cồn có diện tích khoảng 2,6 hec-ta nằm ngay phía trên thác.
(Còn tiếp)
Đà Lạt, mùa xuân năm Nhâm Thìn, 9-2-2012,
M.T.L.
Tài liệu tham khảo:
[1] Bản Giốc chờ ngày cất cánh, Thanh Niên 23/10/2011:
[2] Lê Bá Thảo, Thiên nhiên Việt Nam, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà nội 1977, tr. 43-44.
[3] VASC Orient chính là tiền thân của trang mạng VietNamNet hiện nay
[4] “Thứ trưởng Ngoại giao
Lê Công Phụng trả lời phỏng vấn của VASC Orient chiều 28/1/2002”. Mặc
dù đã bị bóc gỡ, bài phỏng vấn này vẫn được lưu truyền trên mạng
Internet trong suốt một thập niên qua.
[5] Nguyễn Trường Giang, “Hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam và Trung Quốc”, Tạp chí cộng sản, 27/2/2009:
[6] Nguyễn Hồng Thao, “Việt-Trung và đường biên giới pháp lý, công bằng, hữu nghị”, Vietnam Net 02/01/2009: http://vnn.vietnamnet.vn/chinhtri/2009/01/821775/
Ông Phó giáo sư Tiến sĩ này về
sau thăng chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia thuộc Bộ Ngoại
giao và gần đây, được bổ nhiệm làm đại sứ Việt Nam tại Malaysia.
[7] Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si, par le Commandant Famin,
Vice-Président de la Commission d’Abornement des Frontières
Sino-Annamites en 1894, Paris, Auguste Challamel, Editeur, Librairie
Coloniale, 1895. Ảnh chụp lại hai trang 12 và 13 đã được công bố trong
“Thư ngỏ của nhà khoa học Thái Văn Cầu gửi PGS TS Nguyễn Hồng Thao, Phó
Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới, Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam”: Bauxite Vietnam, 07/01/2011: http://www.boxitvn.net/bai/15750
[8] Người Pháp thành lập ở vùng thượng du Bắc Việt 4 khu quân sự (territoires militaires):
(1) Móng Cái, (2) Cao Bằng, (3) Hà Giang và (4) Lai Châu. Về sau, còn
thành lập thêm khu thứ 5 ở Phong Saly (Lào). Đào Duy Anh gọi là đạo quân sự thứ hai (Xem Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Viện Sử học VN – NXB Thuận Hóa, 1996, tr. 219).
[9] Trương Nhân Tuấn, “Biên Giới Việt Nam: vùng tiếp giáp tỉnh Quảng Tây”, phần I, 29-08-2009: http://vn.360plus.yahoo.com/truongnhantuan/article?mid=95&fid=-1
[10] Quốc sử quán Triều Nguyễn, Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 4, NXB Thuận Hóa 1997, tr. 403.
[11] Hàn Vĩnh Diệp, “Tấc đất tấc vàng”. Bài này được đăng trên Mạng Ý kiến
(ykien.net) vào năm 2005, nhưng đến nay trang mạng này không còn tồn
tại vì bị tin tặc đánh phá. Có thể tham khảo bản đăng lại tại địa chỉ: http://www.freewebs.com/tinvn/TacDatTacVang.htm
[12] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc,
NXB Sự thật, Hà Nội, 1979, tr. 11-12. Cuốn sách này chính là toàn văn
của bản «bị vong lục» (giác thư, memorandum) của Bộ Ngoại giao Việt Nam
công bố ngày 15-3-1979.
[13] Trương Nhân Tuấn, “Tìm hiểu chủ quyền thác Bản Giốc”, 01-11-2011:
[14] Trung Khanh Phu (topographic) Sheet 6354-4, 1:50,000 U.S. Army Map Service 1964 (10.1MB) [GeoPDF]:
[15] AMS 1:50000 Maps inVietnam Archive Map Collection:
[16] Những địa danh in nghiêng là địa danh ghi trên bản đồ.
[17] Do không có trong tay
bản sao nhật ký của Détrie cho nên đoạn văn này hoàn toàn dựa vào
nguyên văn do ông Trương Nhân Tuấn công bố. Trong bản văn này, dòng sông
Quây Sơn được ghi là Qui-Xuan chứ không phải là Qui-Thuan như
trong cuốn sách của Thiếu tá Famin. Nếu quả thật Détrie ghi là Qui-Xuan
thì tên sông này đã xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 chứ không phải chỉ mới
xuất hiện gần đây.