Nhà nước có tim?
TS Nguyễn Sỹ Phương, CHLB Đức
Từ
trước Tết Nhâm Thìn tới nay, ở ta sự kiện Tiên Lãng cưỡng chế gia đình
anh Đoàn Văn Vươn bị dư luận lên án sôi sục chưa từng có, đang hừng hực
từng ngày, chưa thể lường trước hồi kết, thì ở Đức một sự kiện chấn động
tương tự, cuộc đấu tranh nóng bỏng tại Tiểu bang Niedersachsen đòi
quyền ở lại cho một gia đình người Việt, sống ở xã Hoya, bị cưỡng chế về
nước 3 tháng trước gây phẫn nộ dân chúng, bất bình chính trường, hội
đoàn phản đối kịch liệt, sau 83 ngày đã kết thúc thắng lợi. 10 giờ 55
phút, ngày 31.1.2011, ông bà Nguyễn (45 tuổi), cùng 2 con (lên 9 và 6
tuổi) được đón trở lại Đức sinh sống, xuống sân bay Hannover -
Langenhagen, Đức, trong vòng vây hơn ba chục người Đức, đại diện các tổ
chức, cơ quan, trường học, hội đoàn, vì lương tri và lòng bác ái từng
sát cánh tổ chức đấu tranh đòi quyền ở lại cho gia đình, cùng cô con gái
đầu, 20 tuổi, tới đón, ôm hôn thắm thiết, dương biểu ngữ, tung bóng
bay, tặng hoa, mừng mừng, tủi tủi, sôi động, phấn khích, như trong phim
trường, trước hàng chục ống kính, quay phim, chụp ảnh, phỏng vấn, của
các đài truyền hình, truyền thanh, báo chí. Khó ai cầm nổi nước mắt
trước cảnh tái đoàn tụ của một gia đình 5 thành viên đã phải trải qua
một thảm kịch tan đàn xẻ nghé bởi chính quyền tiểu bang, xảy ra 3 tháng
trước lúc 3 giờ 15 phút sáng ngày 8.11.2011.
- Ai đã ngầm thỏa thuận ? bán Biển Đông choTrung quốc ?
- CHÂN DUNG HỒ CHÍ MINH
- NGUYỄN TẤT TRUNG ĐỨA CON RƠI CỦA HỒ CHÍ MINH ( Bùi Tín )
- VIỆT NAM phải làm gì để tránh chiến tranh ? Tránh đổ máu ?
- Hồ Chí Minh và đứa con rơi Nguyễn Tất Trung.
- Vì sao chủ nghĩa công sản bị cáo buộc chống nhân loại (phần 1)
Đêm
đó sương mù dày đặc, ông bà Nguyễn cùng 3 con bị đánh thức dậy bất ngờ.
Lực lượng cảnh sát tới ra lệnh cho cả nhà, ngoại trừ cô con gái đầu
theo luật định đủ tiêu chuẩn được hưởng quyền ở lại Đức, trong vòng 1
giờ rưỡi, phải thu dọn nhà cửa, gói gém hành lý, lên xe để chở ra sân
bay Frankfurt trục xuất về Việt Nam.
Lịch sử vụ
trục xuất khởi đầu từ năm 1992, đầu tiên là người chồng mang tên giả,
tiếp đến năm 1998 tới lượt người vợ, nhập cư bất hợp pháp vào Đức, lần
lượt đệ đơn xin tỵ nạn, đều bị từ chối; rồi kiện ra toà theo luật định
cũng bị bác bỏ. Khi có lệnh đòi trục xuất, cả hai liền bỏ trại, sống lưu
vong. Sau 3 năm, họ nhập trại lại, lấy tên thật đệ đơn lần nữa. Lúc này
ông bà Nguyễn đón cả con gái đầu sang Đức, và tiếp đó sinh thêm 2 con.
Trải qua quá trình hàng năm trời xét đơn, kiện ra 2 cấp toà án, tới năm
2006 vẫn bị bác bỏ. Khi bị đòi trục xuất lần 2, gia đình phải trốn tránh
bằng cách vào nhà thờ xin tỵ nạn tôn giáo. Một năm sau, ông bà Nguyễn
trở lại trại tỵ nạn, để đệ đơn theo luật định, khiếu nại lên Quốc hội
xin chiếu cố quyền ở lại, kết qủa bị bác bỏ, đệ tiếp lên Ủy ban cứu xét
các trường hợp đặc biệt cũng bị từ chối với lý do từ quá khứ, ông Nguyễn
lạm dụng quy chế tỵ nạn chính trị, khai tên giả, sống lưu vong, đưa con
gái vượt biên, kết cục gia đình ông lại bị đòi trục xuất lần 3. Hết mọi
cơ sở pháp lý chống đỡ, không còn biết bấu víu vào đâu, gia đình ông bà
Nguyễn sau gần 20 năm lưu lạc xứ người, trầy trật vật lộn tìm cách ở
lại, đành tuyệt vọng buông xuôi, phó mặc cho số phận, cam chịu trục
xuất.
Vụ trục xuất hoàn toàn đúng quy trình pháp
lý, như bất kỳ trường hợp xin tỵ nạn nào, chỉ thi hành, sau khi họ đã
kiện ra toà án từ sơ thẩm tới phúc thẩm bị xử thua, đệ đơn lên Quốc hội
khiếu nại bị từ chối, viện tới Ủy ban cứu xét các trường hợp đặc biệt,
bị bác bỏ, nhưng trong trường hợp ông bà Nguyễn đã đánh vào lương tri,
lòng nhân đạo, tính bao dung của mỗi con người trước nỗi khốn cùng của
đồng loại. 20 năm tìm cách ở lại cũng là 20 năm, dài tới 1/5 đời người,
gia đình ông bà Nguyễn đã gắn bó với bản địa chẳng khác gì người Đức,
làm việc chăm chỉ với đồng nghiệp Đức trong công ty Đức, nộp thuế, đóng
bảo hiểm cho nhà nước Đức, tham gia mọi hoạt động xã hội địa phương, làm
từ thiện chăm sóc một cụ bà Đức đơn côi như ruột thịt, con cái sinh ra,
lớn lên và học hành ở đây, mảnh đất này đã trở thành quê hương của
chúng, được nhà thờ, các hội đoàn và dân chúng địa phương mến mộ, coi
như hàng xóm của mình. Họ không thể làm ngơ trước tai họa trục xuất ập
xuống đầu hàng xóm họ. Một làn sóng phẫn nộ chưa từng có xưa nay, nhắm
vào Bộ trưởng Nội vụ được pháp luật quy định chịu trách nhiệm pháp lý
đối với vụ trục xuất, dấy lên rộng khắp, phản đối vụ trục xuất gia đình
ông bà Nguyễn đồng nghĩa với trục xuất chính người Đức ra khỏi quê hương
bản quán họ. Hiệp hội giúp đỡ người tỵ nạn Früchtlingsrat Tiểu bang chỉ
trích dữ dội Chính phủ theo đuổi chính sách không khoan dung, mở một
chiến dịch kêu gọi công dân lên tiếng phản đối bằng email gửi trực tiếp
cho Thủ hiến và Bộ trưởng Nội vụ Tiểu bang. Báo chí, truyền thông đưa
tin dồn dập phản đối. Đài truyền hình vùng Bắc Đức NDR vào cuộc, tường
thuật tỷ mỉ vụ trục xuất với sự tham gia của cô con gái đầu ông bà
Nguyễn. Học sinh cùng lớp con ông bà Nguyễn viết thư tập thể gửi lên Bộ
trưởng Nội vụ Tiểu bang kiên quyết chống lại. Tổ chức Nhà thờ Tiểu bang
đe doạ sẽ từ chức khỏi Ủy ban cứu xét những trường hợp đặc biệt. Đảng
đối lập FDP, và SPD cho rằng những gì Bộ trưởng Nội vụ khẳng định đúng
luật đều vi phạm quan niệm cơ bản về nhân đạo của đa số dân chúng Tiểu
bang. Bản thân đảng CDU cầm quyền Tiểu bang, từ Chủ tịch, Phó Chủ tịch
đảng bộ điạ phương Hoya, tới Trưởng đoàn Nghị sỹ đảng CDU Tiểu bang,
Nghị sỹ Liên bang thuộc khu vực bầu cử tại điạ phương, cựu Phó Chánh án
Toà án Hiến pháp Liên bang đều lên tiếng phản đối, thậm chí có đảng viên
CDU rút khỏi đảng. Chính quyền Huyện Nienburg, nơi thực thi lệnh trục
xuất, ra tuyên bố, giá như Bộ Nội vụ không chỉ thị, thì họ đã cấp giấy
phép lưu trú cho gia đình ông bà Nguyễn, và cùng với Hội đồng nhân dân
gửi thư đòi Thủ hiến nhanh chóng đưa gia đình ông bà Nguyễn trở lại Đức.
Chỉ
sau 3 ngày bị công luận nhất loạt phản đối, theo đề xuất của nhóm nghị
sĩ đảng Linken, Quốc hội Tiểu bang cho mở phiên chất vấn Bộ trưởng Nội
vụ, đòi phải đón gia đình ông bà Nguyễn trở lại, yêu cầu sửa đổi Luật
Lưu trú từ thực tế này. Bộ trưởng giải trình, theo trình tự pháp lý, gia
đình ông bà Nguyễn đã đệ đơn đến các toà án từ thấp lên cao, đến Quốc
hội, đến Ủy ban cứu xét, tất cả đều bị bác bỏ; Bộ ông với chức năng thực
thi luật pháp, không thể làm khác.
Nhưng vụ
trục xuất đã không còn nằm ở pháp luật mà ở tính người. Trước áp lực
công luận, chính trường, gia tăng từng ngày, đến ngày thứ 3 tiếp theo,
Bộ trưởng Nội vụ Schünemann phải nhượng bộ, tuyên bố đón gia đình ông bà
Nguyễn trở lại Đức. Lúc này Schünemann mới tỏ ra thấm thía, lý giải
quyết định mang tính người đó, trước công luận: “Bộ trưởng cũng có tim,
không thể nhắm mắt trước nỗi khốn cùng của con người“. Có nghĩa dù nhân
danh nhà nước, đầy “quyền sinh, quyền sát“, thì bộ trưởng vẫn là một con
người, mang tính người, không thể thực thi nó bất chấp vận mệnh, cuộc
sống con người. Nếu không, đó là một nhà nước không tim; lịch sử loài
người đã từng chứng kiến như thế với nhà nước diệt chủng Đức Quốc xã hay
Khơme đỏ.
Hai vụ cưỡng chế gia đình ông Nguyễn ở
Đức và ông Vươn ở Tiên lãng cùng xuất phát từ lệnh của quan chức chịu
trách nhiệm hành chính cao nhất, cũng diễn ra sau một thời gian dài
tranh chấp pháp lý, nhưng ở Đức do pháp luật bắt buộc, bằng biện pháp
hành chính; dù không phải công dân họ, đối tượng vẫn được đảm bảo cuộc
sống, hộ tống an toàn khi trục xuất, cấp từ vé máy bay tới bảo hiểm y
tế, tiền chi tiêu dọc đường; và khi đón trở lại cũng vậy, bảo đảm toàn
bộ chi phí di chuyển, nơi ăn chốn ở, con cái học tập, nhu cầu sinh hoạt,
làm việc bình thường cho cả gia đình, ổn định chỉ sau 1 tuần. Trong khi
đó, Tiên Lãng cưỡng chế công dân mình bằng biện pháp vũ trang, huy động
cả quân đội vốn sinh ra để chiến đấu chống xâm lược; không do pháp luật
bắt buộc, mà theo lệnh người đứng đầu, nhằm thu hồi hoặc tịch thu, hoặc
triệt tiêu toàn bộ những gì đối tượng đã làm ra hay đang sử dụng, bất
biết liệu họ có thể tồn tại được hay không khi mất cả chốn nương thân,
lẫn mọi phương tiện sinh hoạt. Liệu người đứng đầu chính quyền Tiên Lãng
“cũng có tim“ như Bộ trưởng Đức phát biểu?
Trong
lúc Tiểu bang Niedersachsen từ các đảng phái, hội đoàn, tới chính quyền
các cấp trực thuộc, từ nghị sỹ tiểu bang, tới nghị sỹ Liên bang ứng cử
khu vực đó, đều lên tiếng phản đối người đứng đầu chính quyền họ, không
cần Liên bang phải can thiệp, thì ở Tiên Lãng ngược lại, huy động toàn
bộ công, dân, chính, đảng, ra sức bảo vệ sai phạm của mình; nếu cả nước
không „đứng lên“ phản đối, chính quyền trung ương không can thiệp, thì
chính quyền Tiên Lãng không tim chưa biết sẽ còn trượt tới đâu và đến
mức nào với những công dân thấp cổ bé họng của họ cả về pháp luật lẫn
đạo lý ? Ở đây không còn là vấn đề riêng của chính quyền Tiên Lãng vốn
một khi vi phạm đã có pháp luật xử lý, mà liên quan tới toàn xã hội và
thể chế. Liệu Tiên Lãng đã đủ gây sốc, làm bừng tỉnh cả xã hội lẫn chính
quyền cả nước?
Cơ chế nào đã biến một cấp nhà
nước vốn được sinh ra chỉ do dân vì dân và của dân, bỗng trở nên không
tim với chính công dân mình, tới mức không thể tự điều chỉnh - thuộc
tính bắt buộc phải có của một nhà nước dân chủ, như chính quyền Đức sau
vụ trục xuất ông bà Nguyễn. Hy vọng Hiến pháp sửa đổi tới sẽ đặt nền
móng giải quyết nó. Nhưng trong trường hợp vụ cưỡng chế gia đình ông
Vươn có liên quan trực tiếp đến tư duy, chính sách và pháp luật đất đai ở
ta, qua bao lần cải cách, vẫn không đoạn tuyệt được dấu ấn của nền kinh
tế quản lý tập trung trước đây, vốn chỉ thích nghi với nền kinh tế đó -
một nền kinh tế chỉ nhằm hoàn thành kế hoạch nhà nước, theo nguyên lý,
tư liệu sản xuất, nhà máy, đất đai đều thuộc sở hữu toàn dân, do nhà
nước thống nhất quản lý. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, một nền
kinh tế theo đuổi mục đích lợi nhuận, làm giàu, mọi tư liệu sản xuất làm
ra giá trị gia tăng đều được quyền sở hữu tư nhân, để phục vụ cho mục
đó; nhưng riêng đất đai lại không, biến cấp quản lý nhà nước về đất đai
trở thành chủ đất trên thực tế (với cá nhân trước kia gọi là điạ chủ),
gây nên bao hệ luỵ bất công và bất ổn xã hội, mà Tiên Lãng là bằng chứng
của một giọt nước tràn ly. Không thể bao biện cho quyền sở hữu nhà nước
về đất đai bằng lập luận, đất đai coi như lãnh thổ thuộc sở hữu toàn
dân, nên nhà nước phải quản lý để thu hồi, cấp, chia, phân bổ, phục vụ
cho lợi ích chung. Phục vụ cho lợi ích chung đó, không một quốc gia hiện
đại nào trên thế giới phải viện tới độc quyền sở hữu đất đai cả, nhưng
khi bắt buộc cần, họ vẫn có thể quốc hữu hoá không chỉ đất mà cả tài sản
cá nhân, thông qua đền bù có lợi cho chủ sở hữu, được điều chỉnh bằng
hiến pháp và các văn bản lập pháp (chứ không phải lập quy) và do hệ
thống toà án phán quyết nếu tranh chấp. Đất đai dù đóng vai trò gì đi
nữa, thì trong nền kinh tế thị trường cũng chỉ được coi là hàng hoá,
định giá bằng tiền. Một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh không thể
nào phân chia nổi đất đai hay tài sản sao cho công bằng, mà chỉ có thể
phân chia đồng tiền. Nước Đức hiện đại hàng đầu thế giới, với trên 80
triệu dân cũng chỉ có 5.180.000 nhà riêng (năm 2008), số còn lại thuê
nhà. Nhưng nước họ không một ai không chỗ ở, hay thiếu điện nước, chữa
bệnh, sinh hoạt phí tối thiểu, kể cả công dân nước ngoài cư trú ở họ,
tất cả đều xuất phát từ nền tảng chính sách tài chính, tức là tiền, chứ
không phải đất!
N.S.P.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
nguồn BVN