|
Sau 10 năm qui ẩn, xuống núi phen này, Kiều Phong quyết định viết
chuyện tình: mối tình lớn nhất của bác Hồ. Bác Hồ đã say mê... chính
mình, mê như điếu đổ.
Như một anh si tình khờ khạo, bác Hồ làm nhiều trò quái đản để biểu
lộ tình yêu. Chúng ta đều biết, muốn tìm một đội ngũ văn nô mạnh,
phải tìm ở các nước Cộng sản, muốn thấy một lực lượng nâng bi khỏe
nhất, có nghiệp vụ cao nhất thế giới, phải hướng về Hà Nội, thủ đô
của đỉnh cao điếu đóm. Quanh bác Hồ, các chuyên viên thổi ống đu đủ
đông như kiến, tên nào cũng có những ngón nghề ác liệt, thế mà bác
không hài lòng, không thỏa mãn, bác đích thân cắm cúi đi làm một
công việc vô cùng độc đáo là ngồi viết sách tự ca tụng, tự bốc thơm.
Dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, bác viết cuốn
“Những mẩu chuyện về đời hoạt động
của Hồ chủ tịch” (từ đây sẽ được ghi ngắn là
"Những mẩu chuyện..."). Sau
đó, bác chế thêm bút hiệu Th.Lan, cũng với mục đích cao cả là viết
bài tự khen nức nở.
Trong cuốn sách này, Kiều Phong chỉ hỏi thăm sức khỏe bác Hồ và
chú... Trần Dân Tiên. Các chú khác như Th.Lan tạm thời được bỏ qua,
nhưng sẽ có ngày Kiều Phong gom chung lại dẫn ra kho đồ nghề, dụng
cụ ở sau nhà, phát cho mỗi chú một cán búa. Anh nào cũng sẽ có phần
cả, đừng sốt ruột.
Mặt Nạ Rớt Đều Đều
Bác Hồ là người ham học, ham viết. Cả hai đức tính ấy đều tốt, đều
đáng khuyến khích. Chỉ kẹt chút đỉnh là bác có tật ưa táy máy. Khi
đọc, vớ được câu văn lời hay ý đẹp, người bèn mắt la mày lét, nhìn
trước ngó sau không thấy có ai canh chừng là ra tay chôm liền. Mấy
đứa ăn cắp xe hơi mang "hàng"
về còn chịu khó sơn phết, cạo sửa cho mất dấu tích. Bác Hồ của các
đồng chí thì hành nghề chôm danh ngôn một cách lười biếng hơn nhiều.
Văn chương, lời nói của người xưa, bác không chịu sửa đổi, cứ để
nguyên nước sơn láng coóng trình làng, lái chạy khơi khơi. Thế nên
người ta mới bắt quả tang những câu bác Hồ nói giống hệt câu nói của
các danh nhân, hoặc lời sáng tác mới toanh nóng hổi của bác, xem lại
thì đã cũ hàng thế kỷ, đã được cụ Khổng cho chào đời từ xưa rồi.
Các đồng chí cháu bác Hồ có anh cũng biết ngượng, bẽn lẽn giải thích
một cách rất "lô-gích" xã
hội chủ nghĩa rằng: "Đây chỉ là
trường hợp chí lớn gặp nhau". Chí lớn của bác chúng tôi có
hẹn với chí lớn của cụ Khổng. Chẳng may bác bị kẹt xe, đến chỗ hẹn
hơi trễ. Người Việt nam mình vốn giờ cao su, trễ có ngàn năm nhằm
nhò gì mà quí thầy di tản cứ cười đểu hoài. Nhưng đó là chuyện sẽ
được nói ở cuốn sách khác, khi Kiều Phong có thì giờ nhìn lại toàn
bộ tác phẩm lớn bé của bác Hồ. Đây chỉ sơ sơ vài đường để đọc giả
làm quen với các thói hư tật xấu của bác vậy thôi.
Khi đọc sách thì hơi có tật xấu nhưng trong địa hạt sáng tác, công
bằng mà nói, bác Hồ đưa ra được những sáng kiến độc đáo, mới lạ. Nếu
không bị cái tật chôm chĩa nó hại, phải tự túc tự cường thì bác cũng
dựng cờ, gióng trống dựng lên được một trường phái không giống ai:
Trường phái văn chương mặc áo thụng tự vái mình.
Cuốn "Những mẩu chuyện ..."
được in tới, in lui cho toàn dân học tập. Mới đây, Hà nội mới chính
thức công bố Trần Dân Tiên, Th. Lan chính là bác Hồ. Thật ra, chả
cần Hà Nội chính thức xác nhận, chỉ cần đọc vài trang, người di tản
buồn biết ngay tên thực của tác giả.
Xin mời quí vị đọc trang đầu cuốn
"Những mẩu chuyện ...":
“Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam
và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị chủ tịch nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, nhưng mãi đến nay, chưa có người nào thành công.
Nguyên nhân rất giản đơn: chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại
thân thế của mình. Ngày 2-9-45, lần đầu tiên tôi trông thấy Hồ chủ
tịch. Đó là một ngày lịch sử. Ngày hôm ấy, đứng trước rất đông quần
chúng hoan hô nhiệt liệt, Hồ chủ tịch trang nghiêm đọc bản Tuyên
Ngôn Ðộc Lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày thứ hai tôi viết thơ xin phép
được gặp Hồ chủ tịch. Ngay chiều hôm ấy, tôi rất sung sướng tiếp
được thư trả lời của Hồ chủ tịch viết như thế này:
"Ngày mai 7 giờ 30 mời chú đến
Ký tên: Hồ Chí Minh".
Thư trả lời chóng, nội dung thư
giản đơn và giờ hẹn gặp sớm khiến cho tôi rất băn khoăn...”
(trang 5).
Mới đọc đến đây, 19 hàng, chưa được một trang, ta đã có tới hai dịp
biết Trần Dân Tiên chính là bác, đã có chứng cớ về sự giả dối lố
bịch của bác, đã bắt quả tang bác đang len lén đeo mặt nạ ngồi hồ
hởi viết văn bốc thơm chính mình. Chứng cớ thứ nhất: câu mở đầu cuốn
sách đã có hai chữ dùng không chỉnh.
“Nhiều nhà văn nhà báo Việt nam và
ngoại quốc muốn viết... nhưng mãi đến nay chưa có người nào thành
công”. Chữ "thành công"
ở đây mơ hồ. Họ muốn viết nhưng chưa thực hiện được, chưa làm được
hay đã viết về tiểu sử bác rồi, nhưng bốc bác chưa đủ thơm nên sách
không thành công?
Đó là một lỗi nhỏ, không đáng kể, nhưng khi nó được viết, được in
trong một nước đầy nhóc văn nô, thì nó tố cáo rằng tác giả ở cái vị
thế mà cóc anh văn nô nào dám phê bình, sửa chữa. Văn nô chỉ có cái
tội là dồn cả cuộc đời, chí hướng, sức lực vào sự nghiệp nâng bi nên
người ngợm, văn chương lúc nào cũng dơ dáy, tồi tàn. Nhưng khả năng
sử dụng chữ Việt, khả năng viết của họ đều thuộc loại khá cả, không
mấy khi phạm những lỗi "chưa sạch
nước cản". Giả thử Trần Dân Tiên đúng là một văn nô trẻ tuổi
mà viết lách như thế thì các văn nô đàn anh sẽ ghè vỡ đầu ngay. Ðàn
anh Tố Hữu sức mấy mà để cho một kẻ nâng bi tay mơ, dùng chữ còn
chưa vững như Trần Dân Tiên gia nhập đội ngũ. Văn chương Trần Dân
Tiên dù lạng quạng cũng không bị chê bởi vì nó là văn bác. Nhưng văn
tài chưa hại bác ác liệt bằng trí tưởng tượng và trí nhớ của bác.
Chứng cớ thứ hai nằm trong một câu văn đã đột ngột làm rớt mặt nạ
Trần Dân Tiên, phơi mặt bác ra ánh sáng với nguyên cả râu ria:
“Ngày thứ hai tôi viết thư xin
phép được gặp Hồ chủ tich. NGAY CHIỀU HÔM ẤY, tôi rất sung sướng
tiếp được thư trả lời ...” (trang 5).
Ở đây, không có chuyện gửi thư tay vì chú Trần Dân Tiên không mô tả
chuyện ấy. Kiều Phong ngờ rằng chú Tiên đã nhờ bưu điện Mỹ gửi thơ
cho Chủ tịch thì mới nhanh khiếp thế. Nhưng hỏi lại giám đốc bưu
điện San Diego, được trả lời: "Hệ
thống bưu điện tối tân của Mỹ cũng chỉ có thể giao thư vào ngày hôm
sau, nghĩa là qua một đêm mới tới tay người nhận". Bưu điện
Mỹ năm 1988 đã không làm việc nhanh bằng bưu điện nhà nước xã hội
chủ nghĩa vào ngày 3 tháng 9 năm 1945. Ngày đó, có chú Trần Dân Tiên
gửi thư cho Hồ chủ tịch buổi sáng, buổi chiều nhận được thư trả lời!
Giả thử rằng bưu điện nhà nước ta ngày ấy đã thực hiện được phép lạ
thì cái sự chú Tiên nhận được thư hồi âm, hẹn gặp cấp kỳ ngay buổi
chiều cùng ngày cũng có nhiều chỗ tức cười. Coi bộ bác không có việc
gì làm, đang ngồi vêu ra nên vừa nhận được thư của một khách mộ điệu
là vồ lấy trả lời ngay, cho gặp mình ngay. Nếu có một số người hơi
đông cũng muốn gặp bác, chú Trần Dân Tiên chắc phải chờ lâu, ít nhất
lâu bằng một bệnh nhân trong phòng mạch bác sĩ, chứ đâu được bác
chụp giựt vồ vập ác liệt cỡ đó. Cảnh bác Hồ vồ chú Tiên làm Kiều
Phong liên tưởng tới cảnh chị em ta đang ế khứa lại thấy anh khách
sộp Thúc Sinh tà tà đến nạp mạng.
Dù sao, những bí ẩn ấy cũng có lời giải thích ổn thỏa: lỗi chẳng
phải ở chú Trần Dân Tiên viết nhảm, không phải vì bưu điện nhà nước
ta năm 1945 làm phép lạ, mà vì bác gửi thư cho chính mình nên thư
qua từ lại cứ nhanh như chớp. Chưa viết được một trang, bác đã đãng
trí quên bẵng mất rằng mình đang giả làm Trần Dân Tiên để nâng bi
chính mình. Cũng chưa quá một trang, chú Trần Dân Tiên đã bị bác xử
tệ, bỏ quên thê thảm. Cái thư của bác, được chú in lại từng chữ,
đóng ngoặc kép cẩn thận, lại chỉ vỏn vẹn có vài dòng:
“Ngày mai 7 giờ 30 mời chú đến. Ký
tên: Hồ chí Minh”. Người gửi thì cả chữ ký được ghi rõ còn kẻ
nhận thì không được bác nhắc tới họ tên, dù chỉ là cái tên trần xì
như "chú Tiên" chẳng hạn.
Bác Không Muốn
Trên đời có kẻ không chịu bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào có thể tự khen.
Bác Hồ hơn đời nhiều, chưa có cơ hội bác vẫn tự khen được. Vừa xì ra
một câu hẹn: “Ngày mai mời chú
đến”, hoàn toàn tầm thường, không có gì ghê gớm, cao siêu,
vậy mà bác đã bắt chú Tiên phải rối rít bốc thơm rằng:
“Thư trả lời chóng, nội dung giản
đơn...”. Mẹ kiếp, bốc kiểu đó thì trên thế giới, mỗi ngày có
nhiều triệu người đáng được khen chỉ vì họ cũng viết ra những cái
giấy hẹn. Giấy hẹn của anh cha căng chú kiết nào mà chẳng
"nội dung giản đơn...".
Không những thế, giấy hẹn của thiên hạ còn đầy đủ, lịch sự hơn vì có
ghi tên người nhận đàng hoàng. Còn giấy hẹn của bác, xét kỹ lại thấy
thiếu đầu thiếu đuôi, lỡ nó rớt vào tay chú Giáp, chú Đồng hay được
gửi lộn vào nhà chú Trường Chinh thì các chú ấy cũng sẽ nhào tới
trình diện bác đúng 7 giờ 30 sáng mai cùng với chú Tiên! Thư hẹn
thiếu sót, vớ vẩn đến thế mà vừa viết xong bác đã buông bút, đeo mặt
nạ Trần Dân Tiên vào rồi hả hê thò tay xuống tìm... bi.
Bác lại tỏ ra thiếu kiên nhẫn, thấy lời khen ngợi là phải vồ ngay.
Bác có thể chiến đấu trường kỳ, lì lợm nướng hàng triệu người trong
chiến tranh... không sốt ruột. Nhưng có cơ hội được khen thì nhất
định bác chẳng chịu chờ. Xin đọc lại câu văn của bác:
“Ngày hôm ấy, đứng trước rất đông quần chúng HOAN HÔ NHIỆT LIỆT, Hồ
chủ tịch trang nghiêm đọc bản Tuyên ngôn độc lập ...”. Người
bình tĩnh, kiên nhẫn sẽ viết là:
“... đứng trước quần chúng, Hồ chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập
và được hoan hô nhiệt liệt”.
Chờ chút xíu thôi, nào có lâu la gì, đợi chủ tịch đọc xong người ta
sẽ hoan hô nhiệt liệt cho nó đúng thứ tự thời gian và đỡ ồn ào, lộn
xộn. Nhưng bác Hồ cứ thấy "quần
chúng" là cầm lòng không đậu, gặp quần chúng là bác bắt họ
hoan hô nhiệt liệt ngay tức khắc.
Những sơ sót ấy đã tố cáo một số bản tính của bác. Sơ sót hãy tạm
coi là nhỏ và tật xấu chưa trầm trọng lắm. Nhưng cũng chỉ mới viết
trang đầu bác đã để lộ cái tính xạo ke ra. Bác viết:
“Chủ tịch Hồ chí Minh không muốn
nhắc lại thân thế mình”.
Không muốn nhắc lại thân thế mà tự mình ngồi viết cả một cuốn sách
bốc thơm mình, bịa đặt phét lác để nâng bi mình tối đa,
"không muốn" kiểu này hơi lạ! Câu ấy, đáng lẽ phải được viết
như thế này: "Chủ tịch Hồ chí Minh
không muốn... đứa khác viết về thân thế của người. Chính người phải
tự viết lấy, tự ca tụng, tự thổi ống đu đủ, tự nâng bi thì người mới
cảm thấy đã đời"!
Bác Đẹp Trai
Nào chúng ta chịu khó đọc tiếp:
“Sáng 4-9, 7 giờ 25, tôi đến dinh
Chủ tịch. Đúng 7 giờ 30, một người thanh niên đến phòng khách, lễ
phép nói với tôi: "Hồ chủ tịch đợi anh ở phòng làm việc". Phòng làm
việc của Chủ tịch là một gian phòng rất rộng, một bên có nhiều cửa
sổ lớn. Trong phòng có một cái bàn làm việc, một chiếc giường, một
tủ sách nhỏ kê sát vào tường, và hai bàn nhỏ của hai thư ký. Phía
trên lò sưởi, có một lọ hoa. Đấy là tất cả những đồ trong phòng làm
việc, không có một thứ trang trí gì khác. Hồ chủ tịch thường mặc bộ
quần áo kaki, đi giầy vải đen.” (trang 6)
Chúng ta mới ở phần đầu trang thứ hai (trong sách là trang 6 vì 4
trang đầu dành cho nhan sách và những thủ tục lỉnh kỉnh), chưa đi xa
đến một trang rưỡi, ta đã bắt gặp bác để rớt mặt nạ Trần Dân Tiên
lần thứ ba.
Chú Tiên leo lẻo kể rằng lần đầu tiên chú thấy bác Hồ là ngày 2
tháng 9. Sáng 4 tháng 9 chú mới gặp bác lần thứ hai vậy mà chú đã
biết “Hồ chủ tịch THƯỜNG MẶC ...”.
Nếu bác cứ phịa đại Trần Dân Tiên là một thứ lính cận vệ, chuyên lo
điếu đóm cho bác thì đỡ lộ tẩy. Đằng này bày đặt
"thân thế" chú Tiên là
người xa lạ, mới gặp... để rồi chú ấy phom phom kể bác thường mặc áo
này, thường đi giầy kia, thông thạo cứ như... chính bác vậy. Đầu
chưa kịp dấu cái đuôi đã thò ra ve vẩy loạn lên, trông không ra làm
sao cả.
Bây giờ đến khoản bác tả dung nhan của chính mình. Bác viết:
“Tóc người đã hoa râm, trán rộng
và cao, đôi mắt sáng ngời, mũi thẳng ...”. Gớm! Bác thấy bác
bảnh trai đến thế thì bác si mê bác là đúng quá rồi. Khúc sau, phải
tả tới màu da, bác hơi kẹt vì da bác
"ngăm ngăm đen...". Phịa là
nó trắng trẻo hồng hào thì lộ liễu quá, sợ các cháu cười, bác đành
phải nhận là mình đen. Nhưng lại e nhận như thế nó hơi xí giai đi,
bác vội vã thêm: “Da ngăm ngăm đen
khiến ta nghĩ đến sương gió dãi dầu trong rừng sâu và những nỗi gian
khổ của chiến tranh du kích...” (trang 6).
Nhờ bác Hồ tí! Sương gió dãi dầu thì đen nhưng
"trong rừng sâu" thì lại
chỉ xanh mướt hoặc vàng ra chứ đâu có đen. Cái khoản chiến tranh du
kích lại càng xa sự đen đủi nữa vì đánh du kích là chuyện của những
kẻ theo bác, còn chính bác quanh quẩn chiến đấu dầu dãi gió sương
trong những cái hang kiểu như hang Pắc Bó vậy thôi.
Không ai trách bác chuyện ở ru rú trong hang để điều khiển cuộc
chiến, nhưng ở chỗ an toàn như thế mà cũng đòi có màu da đen rám
nắng của các chiến sĩ gió sương thì... tham lam quá. Cái phần
"trán cao, mũi thẳng, mắt sáng
ngời..." bác đã vồ hết, xí hết, lũ đàn em thực sự làm du kích
có tí da ngăm ngăm đen phong trần để lấy le với đào, bác cũng chôm
luôn. Đã tham lam, bác còn tỏ ra ích kỷ quá sức. Khi tự mô tả mình
bảnh trai như thế, bác cóc thèm nghĩ đến những cộng sự viên đắc lực,
những chú em đồng chí hơi xấu trai: thí dụ như chú Đồng vều. Trong
khi bác "mũi thẳng, mắt sáng"
thì chú ấy mũi vẹo, môi dầy cồm cộm. Bác càng khoe mình đẹp giai thì
chú Đồng vều càng buồn duyên tủi phận dữ lắm. Con người đi làm cách
mạng đâu có cần bề ngoài hoa lá cành như mấy anh đóng tuồng cải
lương. Làm chi mà huênh hoang dữ thần vậy cho lũ đàn em nó thêm đau
đớn phận nghèo!
Bác Khiêm Tốn Nhường Ấy
Sau khi để mặt nạ Trần Dân Tiên rơi lộp bộp mấy lần, bác chợt tỉnh
lại và nhớ ra trò chơi phân thân của mình. Bác mô tả tiếp:
“Tôi bước vào phòng kính cẩn chào.
Chủ tịch đứng dậy bắt tay tôi và mời ngồi trước bàn làm việc. Trước
hết, người hỏi thăm sức khỏe của thầy mẹ tôi và sau mới nói: "Tôi có
thể giúp chú việc gì nào?". Tôi nói rõ mục đích của tôi. Chủ tịch
chú ý nghe. Sau khi tôi nói xong, người cười và đáp: "Tiểu sử. Đấy
là một ý kiến hay. Nhưng hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn. Rất
nhiều đồng bào đang đói khổ. Sau tám mươi năm nô lệ, nước ta bị tàn
phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công
việc hết sức cần kíp đi đã!” (trang 6)
Mặt nạ Trần Dân Tiên lại rớt cái kịch.
Bởi vì trên đời này, nếu có một tên Trần Dân Tiên thật mà tên ấy mới
gặp bác lần đầu đã khờ khạo ngu si đến độ đòi viết tiểu sử ca tụng
người thì làm sao nó có thể sống sót ra khỏi dinh chủ tịch. Bọn văn
nô chuyên nghiệp của bác sẽ bủa vây hàng hàng lớp lớp đón cậu Trần
Dân Tiên ở cổng dinh mà bịch cho cậu một trận tơi bời hoa lá vì cậu
cả gan tính tranh "gióp"
của chúng nó. Sau bao tháng ngày gian khổ đi theo bác chiến đấu,
chúng đã thành văn nô được biên chế, chúng đã được đảng cấp cho dụng
cụ hành nghề là những cái ống đu đủ rất to. Ðứa nào cũng chấp chới
mong ngóng có ngày được vinh dự kê ống của mình vào rốn bác mà thổi,
nay có thằng tay mơ ở đâu nhào tới đòi dẹp những văn nô nhà nghề,
văn nô có chức sắc, để dành cái rốn của bác thì đâu có thể để cho nó
sống sót được.
Về việc thực hiện cuốn tiểu sử, bác bảo:
"Đồng bào đang đói khổ, có nhiều
việc cần kíp phải làm trước. Hãy gác cái ý viết tiểu sử bác lại,
v.v...". Vừa phán như thế xong, bác lại nhặt cái mặt nạ Trần
Dân Tiên dưới đất lên, đeo vào, nâng bi tiếp:
“Một người như Hồ chủ tịch của
chúng ta, với ĐỨC KHIÊM TỐN NHƯỜNG ẤY và đương lúc bề bộn bao nhiêu
công việc làm sao có thể kể lại cho tôi nghe bình sinh của người
được”.
Nếu bác biết tôn trọng lời bác nói thì cuốn sách
"Những mẩu chuyện ..."
không bao giờ được viết. Bởi vì từ ngày 4-9-1945 cho tới lúc các
cháu khiêng bác ra quảng trường Ba Ðình, có lúc nào hết cảnh
"rất nhiều đồng bào đang đói khổ"
hay có khi nào bác hết "những công
việc cần kíp" đâu. Kiên cường rước cho được chủ nghĩa Cộng
sản về chụp lên đầu dân tộc, hô hào một nửa nước đem súng ống đi tàn
sát ép nửa kia vào cuộc đời đói rách... những công trình ấy đâu có
lúc nào cho phép bác được rảnh rang. Đã bề bộn công việc lại còn có
"đức khiêm tốn nhường ấy"
nghĩa là rất thẹn khi phải tự đề cao mình... bác sẽ không chịu kể
tiểu sử cho ai, nói chi đến việc tự viết ra.
May thay cho nền văn chương hài hước, tiếu lâm của dân tộc, bác đối
xử với những lời nói của chính bác giống hệt như mấy cái hiệp định,
hòa ước, lệnh ngưng bắn Tết Mậu Thân mà bác đã ký kết, hứa hẹn...
nghĩa là vi phạm lia chia. Hiệp ước ký rồi bác vi phạm ngay lúc chưa
ráo mực. Lời bác phán thì bị vi phạm ngay từ lúc đang... viết ra!
Cái việc bác ngồi cầm bút viết những câu văn Trần Dân Tiên để tự ca
tụng đã như một bàn tay vả bôm bốp vào cái mồm huênh hoang rằng bác
có nhiều việc cần kíp, bác khiêm tốn, bác bận lo cho đồng bào đói
khổ không có thì giờ khoe tiểu sử, v.v... Tự mình cầm bút khoe tiểu
sử, bốc thơm chính mình rồi cùng lúc lại nức nở ca ngợi rằng mình là
người quá khiêm tốn, quá bận lo cho dân đói không muốn bỏ thì giờ
vào việc kể tiểu sử... cổ kim, đông tây khó kiếm được anh chàng nào
ăn gian nói dối, lố bịch đến thế.
Mới đọc chưa hết ba trang sách của bác chúng ta đã thấy hiện ra rành
rành trước mắt chân dung một con người thèm thuồng lời ca tụng,
không chịu thỏa mãn với các kỹ thuật nâng bi tối tân của một đội ngũ
văn nô nâng khỏe nhất thế giới, một con người dám làm cả những trò
tiếu lâm, cà chớn nhất để thỏa mãn nỗi khát khao được xưng tụng, một
người hoàn toàn vì mình mà quên... dân, vì trong khi dân chúng chết
đói, chết vì chinh chiến thì bác ngồi rung đùi hả hê viết sách tự ca
tụng mình tài, tự vẽ mình là mắt sáng, mũi thẳng, trán cao.
Với ba trang sách mà đã mô tả được ngần ấy chuyện, gửi đến độc giả
ngần ấy đức tính cao cả của bác, phải công nhận là văn chương bác Hồ
cũng phong phú lắm chớ bộ...
Trên mọi địa hạt, bác tỏ ra rất tự kiêu, tự mãn. Lời bác nói ra là
chân lý, hành động của bác không bao giờ sai lầm, bác làm gì cũng
thành công, v.v... Thế nhưng khi đọc tới trang 7 cuốn tiểu sử này
chúng ta thấy có một công việc bác đã làm với tinh thần thiếu tự
tin. Bác cảm thấy mình chưa đạt chỉ tiêu và bác băn khoăn, bào chữa
dữ lắm. Cuối trang 7, bác viết:
“Tôi cũng nhận rằng trong quyển này còn thiếu nhiều đoạn. Trong đời
hoạt động của Hồ chủ tịch, những đoạn ấy phải chăng là rất quan
trọng? Tôi không thể biết, đồng thời tôi cũng nghĩ rằng: ngoài Hồ
chủ tịch, thì không ai có thể trả lời được câu hỏi đó.”
Bây giờ, ta đã biết Trần Dân Tiên chính là bác, câu văn trên cần
được sửa lại cho đàng hoàng, đứng đắn như sau:
"Tôi cũng nhận rằng trong quyển
này còn thiếu nhiều đoạn. Trong đời hoạt động của tôi, những đoạn ấy
phải chăng là rất quan trọng? Tôi không thể biết, đồng thời tôi cũng
nghĩ rằng: ngoài tôi ra thì không ai có thể trả lời được câu hỏi
đó."
Câu văn lảm nhảm tức cười ấy đã thể hiện một thảm kịch do tật khoái
được nâng bi gây ra. Đầu tiên, bác chê hết cả đội ngũ văn nô, chỉ
tin ở tài tự ca ngợi. Nhưng mới viết vài trang, bác teo. Bác sợ mình
sẽ không ca tụng mình tới mức. Bác phải thòng câu đó để nhắn nhe
đồng bào, độc giả rằng: "Cuốn sách
này ca tụng bác chưa đủ đâu nhé, bác Hồ còn nhiều cái hay ho tài ba,
ly kỳ bí mật khác chưa được kể ra, người viết sách nâng bi Trần Dân
Tiên nâng chưa tới đâu. Bi bác còn đáng... cao hơn nhiều, v.v... ".
Ngàn năm một thuở mới có dịp thấy bác nhũn nhặn nhận là mình có chỗ
còn yếu kém, làm chưa đạt chỉ tiêu. Đồng bào đổ xô lại xem chỗ yếu
kém hiếm hoi đó là cái gì thì hóa ra bác khiêm tốn thú nhận rằng:
tôi không đủ tài để ca tụng tôi, tôi là con người vĩ đại vượt ra
khỏi tầm nâng bi, ca ngợi của chính tôi!
Từ thuở vua Hùng dựng nước, trải qua lịch sử hàng ngàn năm, chúng ta
chưa từng gặp một con người "Khiêm
Tốn Nhường Ấy"! |
|
|